Lịch sử dân tộc Việt luôn gắn với thơ ca
Nhà thơ Nguyễn Bình Phương, Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, cho rằng thơ ca đã đi cùng người Việt từ buổi đầu dựng nước, tới những ngày bảo vệ, kiến thiết đất nước.

Trong trường ca Mặt đường khát vọng, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi / Đất Nước có trong những cái ‘ngày xửa ngày xưa’ mẹ thường hay kể…”. Trên hành trình hàng nghìn năm ấy, thơ ca luôn góp phần vun vén, đắp bồi cho dáng hình Việt, tâm hồn Việt.
Cũng bởi lẽ đó, trong những ngày mùa thu này, trong muôn vàn hoạt động kỷ niệm 80 năm Quốc khánh, chương trình nghệ thuật "Những câu thơ viết nên hình đất nước" được thực hiện ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Ông Nguyễn Bình Phương - Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội (đơn vị thực hiện chương trình) - trò chuyện về thơ ca, nhất là những đóng góp của thơ ca trong tiến trình cách mạng 80 năm qua.
Thơ ca với tâm thức Việt
- Ông nhận định thơ ca đã có vai trò thế nào trong các giai đoạn quan trọng của đất nước?
- Lịch sử dân tộc Việt gắn với thơ ca. Thơ ca là lời ăn tiếng nói của người Việt mình. Các cụ hay nói ví von, thì đó chính là thơ ca; vận dụng những câu nói thành nhạc, thành nhịp điệu, đó là thơ ca. Nước ta trước đây chưa có văn xuôi, văn học chỉ có thơ, phú. Từ buổi đầu dựng nước, thơ ca đã đi theo người Việt rồi. Bản chất người Việt là thích thơ, yêu thơ.
Sau này, khi dựng nước giữ nước, kiến thiết bảo vệ đất nước, thơ ca lại đi suốt theo hành trình đó. Các lĩnh vực của đời sống xã hội đều đi qua thơ ca. Thậm chí, đối với người Việt, tuyên truyền quân sự cũng qua thơ, cụ Hồ dùng rất nhiều thơ vì thơ dễ hiểu, dễ thuộc. Người ta tuyên truyền văn hóa cũng phải nhờ đến thơ, tuyên truyền tôn giáo cũng dùng thơ. Thơ có vai trò rất quan trọng với người Việt.
Thơ có tính khái quát, nhịp điệu, dễ thuộc, nên người ta đọc nó ngấm vào người, người ta mang theo, chứ ít người thuộc một cuốn tiểu thuyết. Cái lợi hại của thơ ca trong lịch sử nước mình nó là như thế. Nó gắn với đời sống của mình rất rõ.
Lịch sử nước ta có nốt trầm là 1.000 năm phương Bắc đô hộ. Trong 1.000 năm đó, người Việt không bị chế độ đô hộ nghiền nát, không bị hòa tan, không bị biến mất, cứ tồn tại trong bóng tối của phương Bắc, một ngày vùng lên tuyên ngôn độc lập.
Thơ ca nuôi dưỡng văn hóa, khát vọng, niềm lạc quan, góp phần giữ cốt cách Việt, tâm hồn dân tộc Việt.
Nhà thơ Nguyễn Bình Phương
Cái gì khiến cho người Việt mình trong 1.000 năm đen tối, đau thương đó không biến mất? Một phần là từ thơ ca. Thơ ca nuôi dưỡng văn hóa, khát vọng, niềm lạc quan, góp phần giữ cốt cách Việt, tâm hồn dân tộc Việt.
Người ta có thể xóa sổ hết mọi thứ nhưng thơ thì không thể xóa được. Nói như Nguyễn Đình Thi là “Xiềng xích chúng bay không khóa được / Trời đầy chim và đất đầy hoa / Súng đạn chúng bay không bắn được / Lòng dân ta yêu nước thương nhà”. Không thể đô hộ được, tiêu diệt được cái nằm trong lòng người ta. Thơ là cái đã đi vào trong lòng người. Văn hóa, khí phách, khí tiết của con người đã được nuôi dưỡng qua những câu thơ như thế.

Nhà thơ Nguyễn Bình Phương - Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ảnh: Việt Hà.
- Mới đây, Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức đêm thơ “Những câu thơ viết nên hình đất nước”. Tên của chương trình có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?
- Từ trước đến nay, thơ ca cách mạng luôn gắn với lịch sử đất nước, đặc biệt là gắn với hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ. Hình ảnh người lính đi suốt theo lịch sử Việt Nam, từ lúc dựng nước, bảo vệ chính quyền, chống xâm lăng, tới khi xây dựng kiến thiết đất nước. Những câu thơ viết về người lính chính là viết nên một phần diện mạo, hình dáng của Tổ quốc.
- Diện mạo đó đã thay đổi thế nào trong 80 năm qua?
- Đầu tiên là hình ảnh đoàn Vệ quốc quân, với vũ khí thô sơ, chưa có huấn luyện, nhưng vì lòng yêu nước mà họ đầu quân, từ đó quân đội được thành lập. Ta đã chiến đấu với đội quân rất mạnh là Pháp. Đấy là giai đoạn vừa mộc mạc, vừa thô sơ, chất phác nhưng cũng rất lãng mạn. Vũ khí lớn nhất thời điểm đó là lòng yêu nước, chỉ nhờ vậy mà ta thắng được Pháp.
Sang giai đoạn thứ hai, quân đội chính quy hơn, đất nước có sự phát triển, đó là giai đoạn anh bộ đội trong kháng chiến chống Mỹ. Giai đoạn này, anh bộ đội được trang bị những vũ khí tối tân hơn, lực lượng phát triển mạnh. Đây là giai đoạn chiến tranh khốc liệt nhất, đầy máu lửa, khốc liệt hơn cả chống Pháp, vì đối diện với người lính không phải thực dân cũ kỹ nữa mà là một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời điểm ấy. Đó là một giai đoạn hào hùng, đầy quyết liệt.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, nhưng vẫn còn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Đất nước đang tan hoang sau chiến tranh, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, chưa kịp phục hồi thì người lính lại xung trận, bước vào cuộc chiến bảo vệ biên giới. Bằng ý chí, bằng kinh nghiệm, quyết tâm và khát vọng, người Việt vẫn vượt qua.
Đất nước, từ thời phong kiến, sau đó bị cai trị bởi Pháp, rồi vùng lên giành chính quyền, rồi xây dựng những đạo quân lớn, chiến thắng cả thực dân và đế quốc. Sau này, chúng ta vẫn vừa bảo vệ biên giới, vừa bảo vệ hải đảo, vừa cố gắng xây dựng, phát triển đất nước trên các mặt trận kinh tế - văn hóa - xã hội. Bây giờ anh bộ đội đẹp hơn, trang bị khoa học kỹ thuật tốt hơn, không kém các nước trên thế giới. Thông qua hình ảnh anh bộ đội, ta cũng thấy hình ảnh đất nước phát triển là như thế.
- Thơ ca có lẽ không chỉ khắc họa hình ảnh đất nước mà còn soi chiếu tâm thức của cộng đồng mỗi thời kỳ. Ông thấy tâm thức đó đã có biến chuyển ra sao?
- Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, thơ ca kế thừa từ giai đoạn 1930-1945 nên có độ nhẹ nhàng, hào hoa, chậm rãi, từ tốn. Tới chống Mỹ, cuộc chiến cam go hơn, ý thức nghệ thuật cũng khác, vì cuộc chiến đã khốc liệt hơn. Nhu cầu tuyên truyền mạnh hơn, vì thế thơ ca có bước chuyển rất lớn: tất cả vì Tổ quốc, phục vụ cho nhiệm vụ đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước.
Các văn nghệ sĩ thời điểm đó tạm dẹp bỏ nhu cầu sáng tạo cá nhân của mình, dẹp bỏ nhu cầu tìm kiếm cái riêng, mà viết làm sao có ích nhất, dễ hiểu nhất và tạo được cái khí thế cho quân và dân hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh đuổi ngoại xâm.
Đấy cũng là một sự hy sinh, vì nghệ sĩ thì hay tìm tòi, cá nhân nghệ sĩ thích thử nghiệm, thậm chí bây giờ các nhà thơ viết vẫn có thể rất khó hiểu. Lúc đó cả dân tộc chỉ chung một mục đích, khiến thơ ca hình thành một giọng điệu, một trường thẩm mỹ riêng của thời chống Mỹ, với Phạm Tiến Duật, với Thanh Thảo, văn xuôi thì có Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Chu Lai…
- Vậy cái “tôi” và cái “ta” đã biến đổi thế nào trong từng giai đoạn, từng trường thẩm mỹ, theo ông?
- Trong chiến tranh, hình tượng anh bộ đội vẫn là anh bộ đội của sự cao cả, vẫn là người anh hùng, vẫn hoàn mỹ, kẻ thù thì yếu hèn, bạc nhược, còn ta thì thông minh, có ý chí.
Nhưng sau 1975, khi cuộc chiến lùi xa thì các nhà văn có độ lùi để nhìn về chiến tranh. Lúc đó, họ nhìn nhận phía kẻ thù cũng có những người dũng cảm, cũng thông minh, cũng như mình, cũng có lý tưởng riêng, dù lý tưởng đó có sai. Văn học minh định tính chính nghĩa cho cuộc chiến tranh của mình, nhưng người ta bắt đầu thấy kẻ thù cũng phức tạp, không như ngày xưa là mình bôi đen quân địch.
Anh bộ đội - nhân vật chính - cũng có những thay đổi. Ngày xưa anh bộ đội chỉ có cái chung là sứ mệnh người anh hùng, làm những việc anh hùng, đánh đâu thắng đấy, nhưng sau 1975, người ta nhìn nhận bằng con mắt khác. Anh bộ đội cũng có những nỗi niềm riêng, cũng có hoàn cảnh, có bi kịch, có những tâm tư. Lúc này, anh bộ đội bắt đầu có số phận.
Số phận nghĩa là như chúng ta, có yêu, có ghét, có sợ hãi, có nhu cầu cá nhân. Anh bộ đội phải lựa chọn giữa tính mạng mình, thứ mỗi người chỉ có một lần trên thế gian, với sự tồn tại của Tổ quốc. Anh bộ đội phải chọn giữa hạnh phúc, vun vén cho cá nhân mình, với cái hạnh phúc cộng đồng. Anh cũng là một người bình thường nhưng anh chọn hy sinh vì độc lập, cái đó khiến anh cao cả hơn. Điều đó khiến anh bộ đội gần gũi hơn, mà ta cũng thấy sự hy sinh nó giá trị hơn.
Sau Đổi Mới, các nhân vật phức tạp hơn, thậm chí có những nhân vật khai thác những nỗi đau, bi kịch chiến tranh, anh bộ đội được đặt trong những tình huống đôi khi không phải người làm chủ mà trở thành một nhân vật bị vướng mắc trong tình thế của chiến tranh. Văn học, dù đề cập những khía cạnh như thế nhưng không phải để giải thiêng anh bộ đội, mà để làm anh bộ đội gần gũi hơn, vì thế tính hy sinh của anh bộ đội có chiều sâu hơn. Nhờ thế mà ta thấy người lính vẫn như một người bình thường, nhưng lựa chọn thì phi thường.
Dù viết về bi kịch của người lính, nhưng điều đó không làm giải thiêng, làm nhếch nhác, làm người lính yếu hèn, mà ta nhìn thấy họ trong nỗi đau, trong bi kịch, nhưng cũng từ bi kịch mà họ vượt lên được, họ trở thành người anh hùng. Có như vậy thì mới là đáng quý.

Nhà thơ Nguyễn Bình Phương cho rằng lịch sử dân tộc Việt gắn với thơ ca, thơ ca là lời ăn tiếng nói của người Việt từ buổi đầu dựng nước. Ảnh: Việt Hà.
Thơ ca phản ánh thân nhiệt xã hội
- Thơ ca đất nước giai đoạn từ sau Đổi Mới trở lại đây có những sắc màu nào mà giai đoạn trước chưa có?
- Có những giai đoạn sau Đổi Mới, thơ ca chú ý về con người cá nhân. Nó chú ý khai thác, lắng nghe những chuyển động trong nội tâm. Nó đi vào vi mạch, nó tìm cách cố định lại những khoảnh khắc trong đời sống. Cùng đó, người ta tìm kiếm những hình thức thể hiện khác đi. Lịch sử thơ ca là lịch sử của những cuộc tìm kiếm rất táo bạo, thử nghiệm, thất bại, thành công, nhưng cứ liên tiếp thử nghiệm như thế. Người ta luôn luôn tìm cách định nghĩa về thơ qua mỗi tác phẩm.
Thơ sau thời kỳ Đổi Mới xuất hiện với diện mạo rất khác biệt, phong phú hơn, đi vào những ngóc ngách của đời sống, của tâm hồn con người, thậm chí đi vào những trạng thái bất thường.
Nhưng bên cạnh đó, nó cũng có những mạch hào sảng, tiếp tục viết về tình cảm của mình với Tổ quốc, không chỉ là khám phá con người cá nhân. Như thơ Nguyễn Việt Chiến cũng là những trăn trở của con người nhớ biển đảo Tổ quốc, trong những tình thế của thời buổi hôm nay, nó vẫn có rất nhiều mạch phong phú.
Nhịp điệu của thơ cũng là nhịp sinh học của con người. Anh yếu thì anh nghĩ những vấn đề nhỏ nhỏ, anh khỏe thì anh nghĩ những vấn đề lớn, bao quát. Thời chống Mỹ, tất cả dồn cho lòng yêu nước, nên các nhà thơ viết khá giống nhau. Bây giờ, chúng ta có thể khám phá những biến động của tâm hồn, tâm trạng của mình, đôi khi nó cũng tỉa tót những vẻ đẹp nho nhỏ ngoài đời sống, đều có giá trị cả.
- Ông dự đoán thơ ca 10-20 năm tới sẽ song hành ra sao với đất nước?
Chúng ta đang có cuộc đại cách mạng tinh gọn bộ máy, đưa đất nước vào kỷ nguyên vươn mình. Nếu đời sống làm được, thì thơ ca cũng sẽ phát triển như thế.
- Chúng ta đang có cuộc đại cách mạng tinh gọn bộ máy, đưa đất nước vào kỷ nguyên vươn mình, nếu đời sống cũng làm được như thế, thì thơ ca cũng sẽ phát triển như thế. Vì thơ ca bám theo đời sống, thời chống Pháp, chống Mỹ nó khốc liệt thì có một thứ thơ văn như thế, sau Đổi Mới nó bung ra thế nào, thì lại có một thứ thơ văn như thế. Thời đại mới sẽ có sự biến chuyển. Thơ ca từng thời sẽ biến chuyển theo thân nhiệt của xã hội.
Người ta nói, người nghệ sĩ là giác quan của thời đại. Anh là giác quan của cuộc sống. Nhà thơ, bằng sự nhạy cảm, sẽ có tài đo được thân nhiệt của xã hội, nóng hay lạnh, vui hay buồn, tùy theo mỗi thời.
Nhà thơ, nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh năm 1965 tại Thái Nguyên. Ông tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du, bắt đầu viết từ năm 1986. Thơ ca là mảng đề tài quan trọng và có ý nghĩa lớn với Nguyễn Bình Phương, với các tập như Buổi câu hờ hững, Lam chướng, Từ chết sang trời biếc, Xa xăm gõ cửa…
Nguyễn Bình Phương có một khối lượng tác phẩm văn chương lớn, với các tiểu thuyết gây tiếng vang như Vào cõi (1991), Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn (2000), Thoạt kỳ thủy (2004), Mình và họ (2014), Kể xong rồi đi (2017)…
Nguồn Znews: https://znews.vn/lich-su-dan-toc-viet-luon-gan-voi-tho-ca-post1581276.html