Làm gì để cởi 'vòng kim cô' giúp khoa học công nghệ phát triển?
TS Trần Quý cho rằng muốn khoa học công nghệ bứt phá, Việt Nam phải gỡ bỏ các vướng mắc hành chính, thay thế tư duy an toàn bằng việc xây dựng văn hóa chấp nhận rủi ro.
Được xác định là động lực tăng trưởng trong định hướng chiến lược của Đại hội Đảng lần thứ 14, khoa học công nghệ vẫn chưa bứt phá như kỳ vọng. Nhiều kết quả nghiên cứu tiếp tục nằm ngăn kéo vì bị siết bởi “vòng kim cô” định giá tài sản công, tư duy quản lý thiên về an toàn và những bất cập trong cơ chế thương mại hóa.
Trao đổi với VietTimes, TS Trần Quý, Viện trưởng Phát triển kinh tế số Việt Nam (VIDE), chỉ ra những điểm nghẽn lớn nhất đang kìm hãm đổi mới sáng tạo, đồng thời đề xuất loạt giải pháp đột phá về tài chính, thị trường, sở hữu trí tuệ và văn hóa chấp nhận rủi ro để mở đường cho khoa học công nghệ trở thành động lực tăng trưởng thật sự.
“Độ trễ tư duy an toàn” - điểm nghẽn lớn hơn cả thể chế
- Trong dự thảo văn kiện Đại hội 14, Đảng xác định khoa học công nghệ là động lực tăng trưởng. Sau khi Nghị quyết 57 được ban hành và nhiều luật liên quan đến KHCN được sửa đổi, theo ông đâu là những điểm nghẽn khiến sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam vẫn khó đi vào cuộc sống thực tế?
- Dù Nghị quyết 57-NQ/TW (12/2024) đã tạo ra một "làn gió chính trị" rất mạnh mẽ và Quốc hội đã thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (có hiệu lực từ 1/10/2025), chúng ta vẫn đang đối mặt với cái tôi gọi là "độ trễ của tư duy an toàn".
Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay không nằm ở văn bản luật, mà nằm ở sự xung đột giữa tính rủi ro của khoa học và nguyên tắc bảo toàn của tài chính công.
Thứ nhất: "Chiếc vòng kim cô" định giá tài sản công: Đây là rào cản kỹ thuật lớn nhất. Khi một kết quả nghiên cứu (từ ngân sách) muốn chuyển giao cho doanh nghiệp, nó phải được định giá. Tuy nhiên, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công vẫn yêu cầu định giá dựa trên các quy chuẩn hữu hình, trong khi tài sản trí tuệ (IP) lại vô hình và biến động.
Các hội đồng định giá rất sợ trách nhiệm vì định giá thấp thì sợ bị quy là "làm thất thoát tài sản Nhà nước", định giá cao thì doanh nghiệp không mua nổi. Do đó, hàng ngàn kết quả nghiên cứu vẫn nằm "đắp chiếu" trong ngăn kéo vì không ai dám đặt bút ký giá chuyển giao.

TS Trần Quý, Viện trưởng Phát triển kinh tế số Việt Nam. Ảnh: NVCC.
Điểm nghẽn thứ hai là tư duy "đếm hóa đơn" trong nghiên cứu. Nghị quyết 193/2025/QH15 về chấp nhận rủi ro đã có hiệu lực từ tháng 2/2025, nhưng bộ máy thực thi cấp dưới vẫn giữ thói quen kiểm soát chứng từ chi li thay vì quản lý theo kết quả đầu ra (Performance-based).
Nhà khoa học vẫn mất quá nhiều thời gian để giải trình việc mua một hóa chất, hay thuê một chuyên gia, thay vì dành thời gian đó cho phòng thí nghiệm.
- Việc một số đơn vị dán tên lên robot nhập khẩu rồi mang đến triển lãm A80 vừa qua cho thấy vấn đề liêm chính khoa học. Theo ông, cần làm gì để nâng cao tính trung thực và chất lượng trong sản phẩm KHCN thương hiệu Việt?
- Sự việc robot tại triển lãm A80 là một hồi chuông cảnh tỉnh cần thiết về liêm chính khoa học. Việc một đơn vị dán nhãn của mình lên sản phẩm nhập khẩu (dù với lý do quản lý tài sản hay sơ suất) đã làm tổn thương niềm tin vào cụm từ "Make in Vietnam".
Để nâng cao tính trung thực và chất lượng, chúng ta cần hành động trên 3 mũi nhọn:
Định nghĩa lại "Make in Vietnam" (Tiêu chuẩn 2025): Không thể chấp nhận việc nhập linh kiện về lắp ráp (assembly) là sản phẩm công nghệ Việt. Theo các quy định mới nhất của Bộ KH&CN năm 2025, một sản phẩm chỉ được công nhận khi đơn vị Việt Nam nắm giữ công nghệ cốt lõi (Core Technology). Điều này bao gồm quyền sở hữu đối với thiết kế phần cứng (Hardware Design), mã nguồn (Source Code) và dữ liệu huấn luyện (đối với AI).
Cơ chế "hậu kiểm" (Post-audit) thay vì "tiền kiểm": Thay vì gây khó dễ lúc đăng ký, cơ quan quản lý cần tăng cường kiểm tra đột xuất sau khi sản phẩm đã lưu hành. Nếu phát hiện gian lận xuất xứ để trục lợi ưu đãi công (như đấu thầu), cần có chế tài xử phạt cực nặng, bao gồm cả việc cấm tham gia các dự án KHCN vĩnh viễn.
Minh bạch hóa nguồn gốc: Chúng ta cần khuyến khích văn hóa "Đứng trên vai người khổng lồ" một cách minh bạch. Nếu mua nền tảng của nước ngoài để phát triển ứng dụng (như mua robot Unitree để lập trình thuật toán điều khiển mới), hãy công khai điều đó. Giá trị của trí tuệ Việt nằm ở giải pháp phần mềm và thuật toán điều khiển, đó mới là thứ đáng tự hào chứ không phải là cái vỏ phần cứng.
Vì sao đổi mới sáng tạo chưa cất cánh?
- Các chính sách hiện nay đã đủ để khơi thông nguồn lực cho khoa học công nghệ – như định hướng trong dự thảo văn kiện Đại hội 14 – hay chưa? Nếu chưa, theo ông, cần điều chỉnh như thế nào?
- Thẳng thắn mà nói là chưa đủ. Chúng ta mới chỉ "mở cửa" về mặt chủ trương, nhưng "dòng chảy" tài chính vẫn bị tắc.
Để chính sách thực sự là động lực, cần điều chỉnh ngay cơ chế vận hành của các Quỹ quốc gia (NAFOSTED và NATIF). Hiện các quỹ này đang vận hành như một cơ quan hành chính: cấp phát kinh phí và chờ quyết toán theo năm tài chính. Điều này triệt tiêu tính dài hạn của nghiên cứu.
Do đó, cần chuyển đổi mô hình các Quỹ này sang cơ chế vốn mồi (Seed Funding) và đầu tư mạo hiểm (Venture Capital). Nhà nước cần chấp nhận vai trò "nhà đầu tư thiên thần" (Angel Investor): chấp nhận bỏ vốn vào 10 dự án, có thể 7 dự án thất bại, nhưng chỉ cần 3 dự án thành công là đủ bù đắp và tạo ra lợi ích quốc gia khổng lồ. Nghị định 264/2025/NĐ-CP vừa ban hành là bước đầu, nhưng cần hướng dẫn chi tiết để cán bộ giải ngân không sợ sai.
- Để thực hiện mục tiêu khoa học công nghệ trở thành động lực tăng trưởng mới giai đoạn 2026–2030 như dự thảo văn kiện Đại hội 14 đề ra, Việt Nam cần thêm những chính sách gì về tài chính, thị trường, sở hữu trí tuệ hay liên kết công – tư?
- Giai đoạn 2026-2030, chúng ta cần tập trung vào thị trường và đầu ra, vì công nghệ không bán được là công nghệ chết. Tôi đề xuất 3 chính sách cụ thể:
Đầu tiên là chính sách "Nhà nước là khách hàng đầu tiên" (First Customer Policy): Đây là chính sách quan trọng nhất về thị trường. Chính phủ cần dành một tỷ lệ nhất định trong mua sắm công (ví dụ 20% ngân sách CNTT) để bắt buộc mua các giải pháp "Make in Vietnam" mới thử nghiệm. Việc Chính phủ tin dùng sản phẩm nội địa chính là "giấy bảo hành" uy tín nhất để doanh nghiệp bán ra thế giới.
Hai là, sandbox định giá tài sản trí tuệ: Cho phép thí điểm cơ chế định giá linh hoạt trong 5 năm. Ví dụ: Chuyển giao kết quả nghiên cứu cho doanh nghiệp với giá 0 đồng, nhưng Nhà nước sẽ thu 5-10% doanh thu của sản phẩm đó trong 10 năm tiếp theo. Điều này biến nhà nước và doanh nghiệp thành đối tác cùng chia sẻ lợi ích, thay vì người mua - kẻ bán đứt đoạn.
Thứ ba là cơ chế thuế ưu đãi cho R&D tư nhân. Cần áp dụng triệt để Luật Thuế TNDN sửa đổi (số 67/2025/QH15), cho phép doanh nghiệp được tính chi phí R&D gấp đôi (200%) khi khấu trừ thuế. Điều này sẽ kích thích các tập đoàn tư nhân đổ tiền vào làm khoa học thay vì đầu cơ đất đai.
- Trong văn kiện Đại hội 14, vấn đề nhân lực chất lượng cao được nhấn mạnh. Theo ông, Việt Nam cần làm gì để tạo môi trường hấp dẫn, đủ sức giữ chân và phát huy năng lực của đội ngũ chuyên gia Việt ở nước ngoài?
- Theo tôi tiền lương là quan trọng, nhưng với các chuyên gia tầm cỡ, sự tôn trọng và quyền tự chủ mới là yếu tố quyết định. Nghị định 249/2025/NĐ-CP (ban hành 19/09/2025) đã giải quyết rất tốt vấn đề này và cần được thực thi nghiêm túc:
Về việc cởi trói về thu nhập, Nghị định 249 đã cho phép trả lương chuyên gia theo cơ chế thỏa thuận thị trường, không còn bị trần lương công chức kìm hãm. Thậm chí, mức thưởng hàng năm có thể lên tới 4 tháng lương dựa trên hiệu quả.
Về trao quyền định đoạt, chuyên gia cần được trao quyền "Tổng công trình sư" - tức là có toàn quyền quyết định về chuyên môn, nhân sự trong nhóm nghiên cứu và mua sắm trang thiết bị mà không phải qua quá nhiều tầng nấc phê duyệt hành chính.
Và quyền lợi từ thương mại hóa, đây là điểm mấu chốt. Hãy cho phép họ được sở hữu cổ phần hoặc chia sẻ lợi nhuận từ chính sản phẩm họ tạo ra. Khi họ thấy tương lai tài chính của mình gắn liền với sự thành công của đất nước, họ sẽ ở lại.
Chính sách cuối cùng và quan trọng nhất, theo tôi là chính sách về "văn hóa chấp nhận rủi ro". Khoa học công nghệ là lĩnh vực của sự thử nghiệm. Nếu chúng ta vẫn giữ tư duy "làm 10 thắng 10", chúng ta sẽ chỉ có những kết quả bình bình, sao chép.
Để bứt phá, chúng ta cần một cơ chế bảo vệ chính trị cho những người dám ra quyết định đầu tư mạo hiểm. Nghị quyết 193/2025/QH15 về chấp nhận rủi ro cần được cụ thể hóa thành các quy trình miễn trừ trách nhiệm dân sự/hình sự rõ ràng cho cán bộ quản lý quỹ và nhà khoa học, miễn là họ minh bạch và không vụ lợi. Chỉ khi cởi bỏ được nỗi sợ hãi này, dòng chảy sáng tạo mới thực sự tuôn trào.











