Khoa học và công nghệ - động lực phát triển kinh tế, xã hội địa phương

Thời gian qua, với sự quyết tâm, quyết liệt trong chỉ đạo, tỉnh Kiên Giang đã có nhiều giải pháp phát triển khoa học và công nghệ (KHCN), ngày càng thể hiện rõ vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đóng góp của KHCN luôn chiếm tỷ lệ cao trong tăng trưởng kinh tế hàng năm.

Luận cứ khoa học đề ra các chủ trương, chính sách phát triển

Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang Huỳnh Vĩnh Lạc cho biết, giai đoạn vừa qua, hoạt động KHCN có nhiều khởi sắc. Trong đó, công tác quản lý khoa học có nhiều điểm mới, thực hiện tốt cơ chế trao đổi, phối hợp, đề xuất đặt hàng, từ đó tham mưu UBND tỉnh kiện toàn hội đồng khoa học cấp tỉnh và phê duyệt danh mục các đề tài, dự án thực hiện bảo đảm sát hợp với yêu cầu thực tiễn và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, Sở Khoa học và Công nghệ thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, nghiệm thu các đề tài, dự án KHCN, bảo đảm quy định, nâng cao chất lượng; hiện sở đang quản lý 29 đề tài, dự án KHCN cấp tỉnh; công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, chính sách và pháp luật về KHCN đến các đối tượng quan tâm, có nhu cầu tiếp cận thông tin được chú trọng.

Ứng dụng công nghệ cấp đông sản phẩm cá mực xuất khẩu. Nguồn: ITN

Ứng dụng công nghệ cấp đông sản phẩm cá mực xuất khẩu. Nguồn: ITN

Công tác sở hữu trí tuệ, thanh tra và quản lý an toàn bức xạ, quản lý công nghệ được thực hiện thường xuyên, tình trạng vi phạm về lĩnh vực đo lường, chất lượng, sở hữu trí tuệ và nhãn hàng hóa giảm nhiều, từ đó góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ sở trong việc thi hành pháp luật về lĩnh vực KHCN…

Ngoài ra, Kiên Giang tích cực xây dựng các chương trình KHCN trọng điểm; thành lập và phát triển các tổ chức, doanh nghiệp KHCN vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; xây dựng và triển khai đề án cấp tỉnh về Bảo tồn gen, nhiều loài được bảo tồn, khai thác, phục vụ sản xuất, xây dựng và phát triển nhãn hiệu, nhãn hiệu tập thể… Tính đến nay đã 100% đề tài dự án về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ có kết quả được áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống. 100% cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã, huyện và tỉnh đã công bố hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam ISO. Đặc biệt, các đề tài, dự án thuộc lĩnh vực khoa học, xã hội và nhân văn đã cung cấp kịp thời luận cứ khoa học làm cơ sở đề ra các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch… phát triển ngành, lĩnh vực và kinh tế - xã hội.

Tập trung thu hút nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc, nhất là cơ chế, chính sách nhằm mục tiêu đưa KHCN và đổi mới sáng tạo (ĐMST) phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng. Do đó, trong thời gian tới ngành KHCN cần tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý và tập trung nguồn lực để thực hiện nội dung đột phá chiến lược về KHCN và ĐMST theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh. Thực hiện tốt vai trò của Sở Khoa học và Công nghệ cùng với các sở, ngành, địa phương trong quản lý, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động ĐMST trong các cơ sở giáo dục và đặc biệt là trong doanh nghiệp. Triển khai đồng bộ, mạnh mẽ các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển KHCN và ĐMST để tạo động lực nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế.

Cùng với đó, tập trung xây dựng năng lực công nghệ cốt lõi, thúc đẩy năng suất, chất lượng, tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Triển khai hiệu quả và đồng bộ, có trọng điểm các chương trình, dự án, đề án, đề tài KHCN cấp quốc gia, cấp tỉnh và cơ sở. Xây dựng, tổ chức thực hiện 1 - 2 chương trình, dự án phát triển công nghệ lớn, có tầm vóc, với sự tham gia của cả khu vực công và tư, có cơ chế thu hút đa dạng nguồn lực (vốn đầu tư phát triển, sự nghiệp KHCN, sự nghiệp kinh tế, nguồn lực từ doanh nghiệp...) để tạo đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội.

Chuyển đổi số và hiện đại hóa hoạt động quản lý nhà nước về KHCN và ĐMST. Chuyển đổi số công tác quản lý nhà nước về KHCN: Số hóa nhiệm vụ KHCN các cấp để công khai, minh bạch, bảo đảm xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về nhiệm vụ KHCN, phục vụ công tác quản lý nhà nước và nhu cầu tra cứu của nhà khoa học và công dân. Phát triển cơ sở dữ liệu về tiềm lực KHCN (tổ chức, nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất, thông tin), bảo đảm được cập nhật theo thời gian. Sử dụng công nghệ số để kết nối, hỗ trợ mạng lưới các nhà quản lý, nhà khoa học, cơ sở giáo dục và doanh nghiệp từ tỉnh đến các địa phương.

NINH GIANG

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/dia-phuong/khoa-hoc-va-cong-nghe-dong-luc-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-dia-phuong-i340593/