Hướng đi nào giúp doanh nghiệp sản xuất thoát cảnh 'gập ghềnh' về đích?
'Bão thương mại' khiến cho đường về đích của không ít nhà sản xuất nội địa (như ngành thép và dệt may) trong hai tháng cuối cùng của năm 2025 trở nên gập ghềnh. Tuy vậy, vẫn có những doanh nghiệp đang đi đúng hướng, thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, tự tạo dựng lợi thế cho mình, giúp cho đường về đích trơn tru hơn.
Như ở ngành thép. Những dự báo mới nhất cho thấy thị trường thép toàn cầu đang dư cung tiếp tục là thách thức lớn cho các nhà xuất khẩu (XK) thép của Việt Nam trong 2 tháng cuối năm 2025. Điều này khiến đường về đích của các doanh nghiệp (DN) sản xuất thép trở nên trắc trở, nhất là khi XK thép trong thời gian qua đã lao dốc (tính riêng 9 tháng đầu năm 2025 kim ngạch chỉ còn 5,17 tỷ USD, giảm tới 28,27% so với cùng kỳ năm trước).
“Soi” sức chạy ở ngành thép và dệt may
Ông Đinh Quốc Thái, Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), cho biết ngành thép đang đối mặt với 2 thách thức chủ đạo: Dư thừa công suất và cắt giảm khí nhà kính. XK cực kỳ khó khăn. Không chỉ vậy, ngành này đã và đang ứng phó 87 vụ việc phòng vệ thương mại thép XK.

Các DN sản xuất nội địa cần cần tự tạo dựng lợi thế cho mìnhđể về đích trơn tru trong 2 tháng cuối của năm 2025.
Trước tình thế như vậy làm cho nhiều nhà XK thép giảm mạnh doanh thu và lợi nhuận. Tuy vậy, vẫn có DN sản xuất thép biết cách thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường để đường về đích được trơn tru hơn.
Qua trao đổi với VnBusiness với góc độ của một DN nội địa có bề dày kinh nghiệm trong ngành thép, ông Lê Việt, Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV Thép Miền Nam - VNSteel (SSCV), cho biết tăng trưởng doanh thu của công ty chịu sự tác động rất lớn từ yếu tố thị trường, tác động dẫn dắt của bất động sản, xây dựng và tác động từ chính sách vĩ mô điều tiết của Chính phủ. Và với chiến lược phù hợp mà công ty triển khai trong thời gian qua đã giúp doanh thu và sản lượng từ đầu năm 2025 đến nay đều tăng so với cùng kỳ năm trước.
Nói về việc thích ứng với thay đổi của thị trường, ông Lê Việt, Tổng giám đốc SSCV, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ.
Chẳng hạn, các tập đoàn thép lớn trên thế giới đang dịch chuyển từ lò cao (blast furnace) truyền thống sang lò điện hồ quang (EAF), sử dụng nguyên liệu chính là thép phế. Điều này giúp giảm phát thải CO2 40–60% so với lò cao, tạo linh hoạt trong sản xuất, dễ điều chỉnh công suất. Trước xu hướng như vậy, theo ông Việt, một số DN (như VNSteel) đã bắt đầu quan tâm tới mô hình này, đặc biệt khi thị trường phế thép nội địa ngày càng phát triển.
Mặt khác, EU và các nước phát triển đang áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), buộc sản phẩm thép XK phải khai báo và trả phí phát thải CO2.
Trước yêu cầu như vậy, ông Lê Việt cho biết bản thân công ty đang có công nghệ luyện thép bằng lò điện – năng lượng tái tạo, phát thải thấp giảm phát thải khí CO2 lên đến 70 – 80% so với công nghệ truyền thống. Điều này phù hợp hoàn toàn với yêu cầu CBAM và xu hướng “carbon-neutral steel” (thép trung hòa carbon) mà EU và OECD đang hướng đến.
Khả năng thích ứng cũng có thể thấy rõ từ một số DN nội địa trong ngành dệt may, giúp cho đường về đích trong 2 tháng cuối năm của họ dễ dàng hơn. Như trường hợp CTCP Đầu tư và Thương mại TNG, theo cập nhật mới nhất từ Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán Mirae Asset vào trung tuần tháng 11/2025, trong 9 tháng đầu của năm 2025, doanh thu và lợi nhuận sau thuế của TNG lần lượt đạt 6.671,1 tỷ đồng (tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước) và 280,4 tỷ đồng (tăng 16,4%).
Với kết quả kinh doanh đang đi đúng hướng, TNG được dự phóng doanh thu và lợi nhuận năm 2025 lần lượt đạt 8.000 đồng (tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước) và 345,7 tỷ đồng (tăng 9,8%).
Theo Mirae Asset, phía TNG có lợi thế nhờ danh mục khách hàng có chất lượng cao trong lĩnh vực may mặc.
Đây là điều đáng khích lệ khi mà tăng trưởng mảng may mặc (một trong hai mảng chính của ngành Dệt may Việt Nam) đã chậm lại trong 10 tháng đầu của năm 2025. Về thị phần, cập nhật đến cuối tháng 10/2025, thị phần hàng may mặc Việt Nam tại các thị trường trọng điểm đã phân hóa, đơn cử như ở Mỹ (hồi năm 2024 chiếm thị phần 20,7%, nhưng hiện tại chỉ chiếm 18,9%).
Tự tạo dựng lợi thế cho mình
Phía Mirae Asset nhận định trong phần còn lại của năm 2025 và nửa đầu năm 2026, dự phóng nhu cầu dệt may của Mỹ sẽ suy yếu do giá cả tăng và lo ngại về thị trường lao động suy giảm. Mặc dù nhu cầu ở thị trường châu Á và EU dự kiến ổn định, sự cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt.
Rõ ràng đó là thách thức lớn cho các DN dệt may của Việt Nam trên đường về đích, đặc biệt với những DN không giữ được vị thế trong môi trường biến động. Tuy vậy, nếu như DN nắm bắt cơ hội từ sự đa dạng thị trường thì khó khăn sẽ vơi đi phần nào.
Thực tế là nhiều DN dệt may đang nỗ lực hướng tới sự đa dạng hóa thị trường XK. Trong đó dệt may Việt Nam đang nổi lên mạnh mẽ ở thị trường Trung Đông và châu Phi - trước đây ít được doanh nghiệp quan tâm. Hoặc thị trường Nga, đã mang lại doanh thu 700 triệu USD chỉ trong 7 tháng đầu của năm 2025.
Hơn thế nữa, ngày càng nhiều DN dệt may Việt Nam đang tích cực đưa ứng dụng về công nghệ và chuyển đổi xanh hóa vào trong chuỗi sản xuất của mình, chỉ đứng sau Trung Quốc trong khu vực về mức độ hiện đại hóa dây chuyền. Đây cũng là một lợi thế cần tiếp tục phát huy.
Không chỉ với ngành thép hay dệt may, “bão thương mại” trong 2 tháng cuối của năm 2025 vẫn là nỗi ám ảnh của các DN sản xuất nội địa khiến cho việc về đích sẽ rất chật vật. Giải pháp mà họ cần làm trong thời gian tới để về đích trơn tru là cần tạo dựng lợi thế cho mình.
Điều này thể hiện rõ trong kết quả được CTCP Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) đưa ra trong trung tuần tháng 11/2025 khi khảo sát doanh nghiệp VNR500 (Top 500 DN lớn nhất Việt Nam năm 2025). Theo đó, 69,4% DN cho rằng đa dạng hóa thị trường XK là lợi thế then chốt giúp giảm thiểu tác động tiêu cực từ các biến động thương mại quốc tế.
Mặt khác, có 63,9% DN đánh giá chuỗi cung ứng linh hoạt là yếu tố quan trọng để thích ứng nhanh với thay đổi. các DN nội địa đã chủ động hơn trong việc tái cấu trúc nguồn cung, đa dạng hóa nhà cung ứng và áp dụng công nghệ trong quản trị, từ đó giảm chi phí và rủi ro khi thị trường quốc tế biến động.
Ngoài ra, một yếu tố khác giúp Việt Nam duy trì lợi thế cạnh tranh là sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao và đạt chuẩn bền vững, được 61,1% DN xem là yếu tố cốt lõi.
Đơn cử các DN trong ngành dệt may, da giày, gỗ, điện tử và nông sản đang chuyển mạnh sang sản xuất xanh, giảm phát thải carbon và ứng dụng công nghệ số để nâng cao năng suất, đáp ứng yêu cầu CBAM của EU, cũng như tiêu chuẩn Net Zero từ các đối tác thương mại.
Hướng đi này phù hợp với xu hướng tiêu dùng xanh, tiêu chuẩn ESG (môi trường - xã hội - quản trị) và yêu cầu truy xuất nguồn gốc ngày càng khắt khe từ các thị trường phát triển.











