Hành cung Vũ Lâm ghi đậm dấu ấn thời Trần

Sau khi tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta lần thứ nhất (1257) thắng lợi, năm 1258 (Mậu Ngọ) vua Trần Thái Tông vừa tròn 40 tuổi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, tạo dựng nước Đại Việt trở thành một quốc gia văn hiến, cường thịnh, theo sách 'Thái Vi quốc tế ngọc ký', ông đã nhường ngôi cho Thái tử Hoảng khi đó 18 tuổi lên ngôi và làm Thái Thượng hoàng về Vũ Lâm tu hành. Việc xuất gia của ông không có nghĩa là từ bỏ quyền lực của mình. Ông đánh giá quân Nguyên - Mông đã thua quân Đại Việt năm 1257, nhưng đây là một kẻ thù rất mạnh, rất có thể, chúng sẽ sang xâm lược nước Đại Việt lần nữa. Vì vậy, nước Đại Việt phải chuẩn bị củng cố lực lượng, tập hợp quân sĩ, rèn luyện thường xuyên, tích lũy lương thực, sản xuất vũ khí để đề phòng cuộc xâm lược của quân Nguyên - Mông lần thứ 2.

Kinh đô ThăngLong thời đó chỉ cách nước Đại Nguyên không xa, là nơi đồng bằng, không có thếhiểm trở núi cao sông dài, lại nằm ở bên tả ngạn sông Hồng, một khi giặc Nguyên- Mông xâm lược lần nữa thì khó giữ, không thể củng cố lực lượng tại Thăng Longđược.

Vua Trần TháiTông cho các quan đi khảo sát tại phủ Trường Yên, cuối cùng đã chọn động VũLâm, hiện là thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, là vùngnúi cao hiểm trở để xây dựng Hành cung Vũ Lâm. Nhà vua về đó với danh nghĩa làtu hành, chỉ cách Kinh đô Hoa Lư xưa ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư ngày nay vềphía Nam khoảng 4km, mở đầu cho việc xây dựng Hành cung Vũ Lâm.

Thái Thượng hoàngTrần Thái Tông về vùng núi Vũ Lâm tu hành với tấm lòng hướng Phật, nhưng chínhlà muốn xây dựng căn cứ địa Trường Yên để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chốngquân Nguyên - Mông lần thứ hai. Các vua Trần thời đó đi tu hành, nhưng vẫn quantâm đến việc đời, việc đạo và đời không tách bạch. Đi tu hành, nhưng Thượnghoàng Trần Thái Tông vẫn chỉ đạo vua Trần Thánh Tông điều hành đất nước, xâydựng Hành cung Vũ Lâm là một hậu cứ vững mạnh.

Theo sách “TháiVi quốc tế ngọc ký”, năm 1258 đến thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư ngàynay, vua Trần Thái Tông cho xây một am nhỏ tại chỗ đất cao dưới chân núi phíaĐông bên sông Ngô Đồng ở phía trong Hang Cả. (Đi qua Hang Cả bên phải là đếnđất dựng am. Hiện nay khu đất đó gọi là đất Vườn Am, cao hơn mặt ruộng rộngkhoảng hơn một sào). Dãy núi nằm bên khu đất đó là núi Vườn Am đã ghi nhận việcvua Trần Thái Tông dựng am (nhà ở) tại đây. Như thế, có lẽ, Trần Thái Tông laồng vua đầu tiên đã đi thuyền qua Hang Cả của Tam Cốc ngày nay, là người pháthiện ra Hang Cả sớm nhất.

Nơi ở đó của vuaTrần Thái Tông rất kín đáo, kẻ thù không thể phát hiện và vào được.

Một thời giansau, thấy ở đó chật hẹp, lầy lội, vua Trần Thái Tông cho chuyển am ra động VũLâm dựng am Thái Vi ở đất Triều cũ thờ Phật và Tam Thanh Thượng Đế, rồi lạichuyển một lần nữa ra chỗ đất hiện nay có đền Thái Vi. Động Vũ Lâm thực chất làmột thung lũng ở phía Tây Bắc thôn Văn Lâm, rộng khoảng 20 mẫu. Trung tâm củaHành cung Vũ Lâm là am Thái Vi thuộc thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải ngày nay. Đây làmột địa danh hiểm trở, ba mặt Bắc, Tây, Nam đều có núi đá cao sừng sững baoquanh, chỉ còn mặt phía Đông là không có núi chắn, nhưng lại có sông Ngô Đồngchảy vào.

Với vị trí ba mặtBắc, Nam, Tây là núi, phíaĐông là sông Ngô Đồng, am Thái Vi thời Trần như một pháo đài hiểm, mang tínhchất một công trình phòng ngự- Một vị trí kín đáo, thuận lợi cho việc phòngthủ, tiến công.

Việc chọn vùngnúi Vũ Lâm làm Hành cung để tu hành, cũng là hậu cứ chỉ đạo cuộc kháng chiếnchống quân Nguyên - Mông của vua Trần Thái Tông là rất khoa học. Tại đây, cóthể nói là “Kinh đô đá”, vua quan nhà Trần đã họp bàn đưa ra những quyết sáchchiến lược chỉ đạo quân dân nhà Trần chuẩn bị, bố trí lực lượng ở những nơihiểm yếu để đón đánh quân Nguyên - Mông. Hành cung Vũ Lâm khi đó trở thànhtrung tâm chỉ đạo, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên -Mông.

Đến niên hiệu BảoPhù (1273 - 1278), vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) đã xây thêm một số cungđiện. Cùng với việc xây thêm cung điện Thái Vi trong niên hiệu Bảo Phù, nhândân thôn Văn Lâm đã làm một con đường từ làng Văn Lâm vào cung điện, xây câùRồng đá qua sông Ngô Đồng, gọi là cống Rồng.

ở am Thái Vi tuhành, xây dựng Hành cung Vũ Lâm một thời gian, chưa rõ vua Trần Thái Tông ởHành cung Vũ Lâm bao nhiêu năm và mất vào năm 1277. Ngày nay một số tên gọi vàtên làng ở xã Ninh Hải, xã Ninh Thắng là nơi xây dựng Hành cung Vũ Lâm còn gơịlại những địa danh xưa của Hành cung Vũ Lâm.

Thôn Văn Lâm, xãNinh Hải có Vườn Am là nơi vua Trần Thái Tông dựng Am đầu tiên, có hang Cả, cóCửa Quan, Gò Mưng là những trạm gác, có Đình Các là nơi các quan thời xưa dừnglại sửa mũ áo trước khi vào am Thái Vi, có bến Thánh là bến thuyền, có cánhđồng Trường Thi là nơi luyện quân và thi võ của quân sĩ thời Trần.

Làng Tuân Cáothuộc xã Ninh Thắng có đình Tuân Cáo là nơi các quan ngày xưa dừng lại báo cáo;làng Hạ Trạo là nơi có bến Đông khi vua Trần Thái Tông đi thuyền đến đây đã chohạ mái chèo, từ đó về sau quy định các quan đi thuyền đến đây đều phải hạ máichèo thuyền để vào am Thái Vi; Xã Ninh Thắng còn có tên một làng là làng HànhCung ghi nhận có Hành cung Vũ Lâm; làng Khả Lương nằm về phía Bắc và Tây Bắclàng Hành Cung là nơi để kho lương thực của nhà Trần.

Vua Trần ThánhTông là con của Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông lên ngôi năm 1258 đã có thơìgian về Hành cung Vũ Lâm xây dựng thêm cung điện. Đến năm 1278, vua Trần ThánhTông lại nhường ngôi cho Thái tử Khâm lên làm Thái Thượng hoàng. Thái tử Khâmlên ngôi là vua Trần Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông cũng về Hành cung Vũ Lâm vàokhoảng năm 1283, xem xét, củng cố và cho canh phòng bảo vệ Hành cung Vũ Lâmnghiêm ngặt.

Tương truyền, năm1283, vua Trần Nhân Tông cho xây dựng các phòng tuyến vòng ngoài để bảo vệ amThái Vi về phía Đông. Ông đã cử Tiến sỹ Đào Dương Bật là người văn võ toàn tàivề vùng đất thôn Đông Trang, xã Ninh An, huyện Hoa Lư ngày nay để chiêu dân lậpấp, cũng là cảnh giới bảo vệ Hành cung ở phía Đông, cách am Thái Vi khoảng 5km.

Còn về phía TâyHành cung Vũ Lâm, vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đã bố trílực lượng quân sỹ thiện chiến ở vùng núi Thiện Dưỡng ngày nay nằm về phía TâyNam xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư để chặn đường tiến quân của quân Nguyên - Mông từThanh Hóa tiến ra. Đây là vị trí chiến lược trong Hành cung Vũ Lâm. Điều đóchứng tỏ Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông quan tâm bảo vệHành cung Vũ Lâm rất cẩn mật. Nhiều cuộc họp quan trọng của triều đình đã diễnra tại Hành cung Vũ Lâm để bố trí lực lượng chuẩn bị đánh đuổi quân Nguyên -Mông.

Ngày 3 tháng 5năm ất Dậu (7-5-1285), hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông cùng Trần HưngĐạo đã đánh tan một bộ phận quân Nguyên - Mông ở đây. “Đại Việt sử ký toàn thư”- Tập II - NXB KHXH - 1998 - trang 56, đã ghi: “Tháng 5, ngày mồng 3, hai vuađánh bại giặc ở phủ Trường Yên (Ninh Bình) chém đầu cắt tai giặc nhiều không kểxiết”. Quân Nguyên - Mông xác phơi kín đồng cỏ, máu chảy đỏ cả một vùng. Saunày người dân còn lưu truyền câu: “Máu Lang Ca, ma Quang Hiển”.

Trận đánh quânNguyên - Mông diễn ra tại thung lũng đá vôi Thiện Dưỡng. ở giữa thung lũng đá vôiThiện Dưỡng thuộc xã Ninh Vân nói trên hiện nay có cánh đồng Cửa Mả và gần đócó thung lũng Mồ, vì có nhiều mồ mả nên nhân dân địa phương vẫn gọi thung lũngnày là “Đất chiến địa” đã ghi nhận điều đó. Trận đánh quân Nguyên - Mông ở phủTrường Yên vào ngày 3 tháng 5 năm ất Dậu (1285), là trận đánh có tầm chiếnlược, có ý nghĩa quyết định đã tiêu diệt rất nhiều quân Nguyên Mông, đã gópphần nhanh chóng quét sạch quân Nguyên - Mông ra khỏi đất Đại Việt sau đó. Mộtlần nữa cho thấy phủ Trường Yên không chỉ là đất Đế đô mà còn là đất chiến địatiêu diệt quân thù. Như thế Hành cung Vũ Lâm là một địa danh rất quan trọng ởthời Trần, có chỗ đứng vững chắc trong lịch sử dân tộc.

Sau chiến thắngquân Nguyên - Mông lần thứ 3 (1288), nước Đại Việt thời gian này là hòa bình,yên ổn, sạch bóng quân thù. Hành cung Vũ Lâm vẫn tồn tại. Vua Trần Thái Tôngmất từ năm 1277, vua Trần Thánh Tông cũng đã mất năm 1290. Năm 1293 vua TrầnNhân Tông nhường ngôi cho con trưởng là Thái Tử Thuyên lên làm Thái Thượnghoàng. Năm 1294 vua Trần Nhân Tông đã đến Hành cung Vũ Lâm. Sách “Đại Việt sửký toàn thư” - Tập II - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội - 1998 - Trang 71và trang 72 có ghi: “Giáp Ngọ, Hưng Long năm thứ hai (1294)… Mùa thu, tháng 7…Bấy giờ, Thượng hoàng (Trần Nhân Tông) đến Vũ Lâm (xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư,tỉnh Ninh Bình ngày nay) vào chơi hang đá (Tam Cốc), cửa núi đá hẹp, Thượnghoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ Thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi VănTúc Vương (tên là Đạo Tái là con của Trần Quang Khải - Trần Quang Khải là conthứ của vua Trần Thái Tông) lên mũi thuyền, chỉ để một ngeời chèo thuyền thôi”.Điều đó khẳng định Thượng hoàng Trần Nhân Tông lại trở về Hành cung Vũ Lâm năm1294.

Đến năm ất Mùi,năm thứ ba (1295), tháng 6, Thượng hoàng Trần Nhân Tông mới từ Ai Lao trở vềnước, sau đó bắt đầu xuất gia đi tu ở Hành cung Vũ Lâm. “Khâm định Việt sửthông giám cương mục” ghi:

“ất Mùi, năm thứba (1295)… tháng 6, mùa hạ… Thượng hoàng từ Ai Lao trở về, rồi xuất gia ở Hànhcung Vũ Lâm, sau lại trở về Kinh Sư”.

Như thế năm 1295,vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành ở Hành cung Vũ Lâm. Đây cũng là xu thế tấtyếu của thời đại nhà Trần, Phật giáo phát triển, muốn tìm thấy những giá trịcủa đạo Phật, Vua, Hoàng hậu cũng đi tu, các vương công đi tu làm tăng chúng.Cho nên Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông cũng đi tu. Ngài xuất gia lần đầu tiênở Hành cung Vũ Lâm.

Theo sách sử đãnêu trên thì Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã tu hành ở Hành cung Vũ Lâm năm1295, có nghĩa là Hành cung Vũ Lâm còn tồn tại đến năm đó. Nhà vua tu hành ởHành cung Vũ Lâm đến năm 1299 thì ra Thăng Long, rồi lên Yên Tử. Có nghĩa làHành cung Vũ Lâm tồn tại ở Ninh Bình 41 năm (1258-1299).

Lã Đăng Bật

Nguồn Ninh Bình: http://baoninhbinh.org.vn/hanh-cung-vu-lam-ghi-dam-dau-an-thoi-tran-20190621081736437p0c63.htm