Hàng chục nghìn trẻ em được học bơi an toàn, giảm tỷ lệ tử vong do đuối nước
Chương trình Phòng, chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2018 - 2025 đã mang lại hiệu quả tác động xã hội rõ rệt. Tại các địa bàn can thiệp, tỷ suất tử vong do đuối nước ở trẻ em giảm 16%. Qua đó cho thấy đuối nước có thể phòng tránh.
Triển khai đồng bộ từ trường học đến cộng đồng
Ngày 17/12, tại Hà Nội, Cục Bà mẹ và Trẻ em, Bộ Y tế, phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam, Tổ chức Chiến dịch vì trẻ em không thuốc lá (Campaign For Tobacco-Free Kids - CTFK) khai mạc Hội thảo liên ngành và tổng kết chương trình Phòng, chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2018 - 2025.
Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Tri Thức, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, đuối nước trẻ em không phải là chuyện xa vời. Nó đang hiện hữu mỗi ngày ở nước ta. Theo thống kê của các ngành, mỗi năm có gần 2.000 trẻ em tử vong do đuối nước, cao gấp nhiều lần một số quốc gia trong khu vực.
Đáng chú ý, phần lớn trường hợp tử vong xảy ra tại khu vực nông thôn, vùng sông nước, nơi trẻ em tiếp xúc nhiều với ao hồ, kênh rạch, sông suối, nhưng lại thiếu kiến thức và kỹ năng an toàn.

PGS.TS. Nguyễn Tri Thức, Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu khai mạc hội thảo
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tình hình mưa lũ, thiên tai bất thường, các nguy cơ đối với trẻ em càng gia tăng. Vì vậy, đuối nước không chỉ là vấn đề của riêng ngành nào, mà là thách thức y tế công cộng mang tính đa ngành, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống.
Từ năm 2018, các bộ, ngành với sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ Từ thiện Bloomberg thông qua Tổ chức Chiến dịch vì trẻ em không thuốc lá (CTFK) và các đối tác đã triển khai Chương trình Phòng, chống đuối nước trẻ em tại một số địa phương.
Đến nay ghi nhận một số kết quả nổi bật: hàng chục nghìn trẻ em được học bơi an toàn theo chuẩn quốc tế. Các mô hình dạy bơi an toàn, kỹ năng an toàn trong môi trường nước được chuẩn hóa và triển khai bài bản. Trẻ em tại các huyện khó khăn đã được tiếp cận chương trình với tỷ lệ hoàn thành cao.
Năng lực đội ngũ được nâng cao rõ rệt, hàng nghìn giáo viên, hướng dẫn viên bơi an toàn được đào tạo; hệ thống giám sát, hướng dẫn kỹ thuật tại các tỉnh được thiết lập; các tài liệu chuyên môn được xây dựng thống nhất và phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Cơ chế phối hợp liên ngành chuyển biến tích cực. Sự phối hợp giữa Y tế - Giáo dục - Công an - Văn hóa thể thao - Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân - Chính quyền địa phương đã hiệu quả hơn, giúp triển khai đồng bộ từ trường học đến cộng đồng.
Bên cạnh đó, đánh giá độc lập của các viện trường cho thấy mô hình dạy bơi an toàn mang lại hiệu quả cao và chi phí hợp lý. Bằng chứng này là cơ sở để Bộ Y tế và các bộ, ngành báo cáo Chính phủ về việc mở rộng quy mô trong thời gian tới. Truyền thông được đẩy mạnh, giúp nâng cao nhận thức của phụ huynh, cộng đồng và tạo đồng thuận xã hội rộng rãi.
Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ biết bơi và có kỹ năng an toàn vẫn chưa tương xứng với nhu cầu, đặc biệt ở vùng khó khăn; cơ sở hạ tầng dạy bơi ở nhiều địa phương còn thiếu; công tác phối hợp liên ngành có nơi còn chưa thực chất; nguồn lực tài chính cho giai đoạn tiếp theo sẽ gặp nhiều áp lực khi các hỗ trợ quốc tế thu hẹp dần...
Những thách thức đó đòi hỏi phải có tư duy chiến lược mới, cách làm linh hoạt hơn và sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức quốc tế.
Phòng chống đuối nước - khoản đầu tư sinh lời cho xã hội
Theo ThS. Đoàn Thị Thu Huyền, Giám đốc Quốc gia Tổ chức Campaign For Tobacco-Free Kids tại Việt Nam, sau khi triển khai chương trình Phòng chống đuối nước cho trẻ em tại các tỉnh có tỷ suất đuối nước trẻ em cao, tỷ suất tử vong do đuối nước ở trẻ em đã giảm 16%. Đặc biệt, tỷ lệ trẻ em biết bơi an toàn và có kỹ năng an toàn trong môi trường nước tại vùng dự án hiện cao gấp 3 lần so với tỷ lệ trung bình toàn quốc.

ThS. Đoàn Thị Thu Huyền, Giám đốc Quốc gia Tổ chức Campaign For Tobacco-Free Kids tại Việt Nam
Để nhân rộng và duy trì mô hình thành công này ra toàn quốc, ThS. Đoàn Thị Thu Huyền dẫn chứng số liệu từ WHO, cứ 1 USD đầu tư cho phòng chống đuối nước sẽ tạo ra lợi ích tích lũy khoảng 9 USD. Việc dạy bơi không chỉ ngăn chặn hàng trăm nghìn ca tử vong mà còn phòng ngừa khoảng 178.000 trường hợp tàn tật nghiêm trọng mỗi năm. Đây là khoản đầu tư sinh lời gấp 9 lần cho xã hội.
Qua thực tiễn triển khai, CTFK đã hạch toán được chi phí trung bình để đào tạo một trẻ em biết bơi an toàn là khoảng 30 USD (tương đương hơn 720.000 VNĐ). Đây là cơ sở dữ liệu quan trọng để các địa phương tham khảo xây dựng đơn giá đặt hàng dịch vụ công hoặc định mức chi cho các chương trình an sinh xã hội. Việc ưu tiên bố trí ngân sách địa phương và kêu gọi xã hội hóa dựa trên quy trình đào tạo chuẩn mà chương trình đã xây dựng là giải pháp bảo đảm tính hiệu quả về chi phí.
Về lồng ghép chỉ tiêu phát triển, ThS. Đoàn Thị Thu Huyền khuyến nghị, công tác phòng chống đuối nước trẻ em cần được coi là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Cần đưa tỷ lệ trẻ em biết bơi an toàn và có kỹ năng an toàn vào hệ thống chỉ số phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và từng địa phương.

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: BTC
Bên cạnh đó, tăng cường công tác thu thập số liệu, đánh giá để đưa ra các can thiệp tại địa phương; đồng thời kiểm tra, giám sát các cơ sở dạy bơi, đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn.
Công tác phòng chống đuối nước trẻ em không thể tách rời bối cảnh thiên tai, bão lũ. Do đó, cần lồng ghép giáo dục kỹ năng phòng chống đuối nước vào các chương trình ứng phó thiên tai, trang bị cho trẻ em khả năng tự bảo vệ mình khi bão lũ xảy ra.
Tại hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận, rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn các 10 tỉnh đã tham gia triển khai thực hiện Dự án Phòng, chống đuối nước trẻ em; chia sẻ các mô hình, thực hành tốt, các nghiên cứu đánh giá độc lập và các bằng chứng kinh tế liên quan đến dạy bơi an toàn; làm rõ giải pháp phối hợp liên ngành, huy động nguồn lực xã hội và định hướng chiến lược giai đoạn 2026 - 2030...













