Giám sát của Quốc hội - 80 năm đồng hành và kiến tạo phát triển
Lời Tòa soạn: Hoạt động giám sát của Quốc hội được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo ngay từ năm 1946 khi Quốc hội Khóa I vừa ra đời. Trải qua gần 80 năm, hoạt động giám sát không ngừng được đổi mới, luôn thể hiện rõ quan điểm đồng hành của Quốc hội với Chính phủ, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong từng giai đoạn lịch sử, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, 'điểm nghẽn' dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì lợi ích của Nhân dân.
Để góp phần làm rõ hơn những đổi mới, thành tựu trong việc thực hiện một trong ba chức năng cơ bản của Quốc hội, Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài: “Giám sát của Quốc hội - 80 năm đồng hành và kiến tạo phát triển.
Bài 1:
Hiến pháp 1946 - nền móng cho hoạt động giám sát của Quốc hội

Các đại biểu dự Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội Khóa I tại Nhà hát Lớn Hà Nội, ngày 2/3/1946. Ảnh Tư liệu
Với việc thông qua Hiến pháp năm 1946, Quốc hội Khóa I đã đặt nền móng và “định danh” cho hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chất vấn và trả lời chất vấn - một trong những hình thức giám sát trực tiếp và hiệu quả của Quốc hội, cũng được thực hiện ngay từ Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội Khóa I. Như đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tuy Quốc hội bầu ra được hơn 8 tháng, nhưng đã đặt những câu hỏi thật già dặn, khó trả lời, đề cập tới tất cả những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh nước nhà”.
Từ "những câu hỏi thật già dặn, khó trả lời”...
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, chức năng giám sát của Quốc hội được quy định ngắn gọn, mang tính đặt nền móng cho hoạt động giám sát của Quốc hội. Theo đó, đối tượng giám sát chủ yếu là Chính phủ. Hình thức giám sát chủ yếu là chất vấn bằng lời nói hoặc văn bản và bỏ phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm.
Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện từ Kỳ họp thứ Hai, Quốc hội Khóa I. Ngày 31/10/1946, người dân đến dự thính phiên họp Quốc hội chật kín 2 tầng gác Nhà hát Lớn Hà Nội để chứng kiến một cảnh tượng chưa từng có trong lịch sử nước ta: các đại biểu của Nhân dân chất vấn các Bộ trưởng, đặc biệt là chờ đợi Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời chất vấn.
Khi ấy, biên bản phiên họp ghi rõ danh sách những người chất vấn và trả lời chất vấn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng toàn bộ thành viên của Chính phủ trả lời hơn 80 câu hỏi của các ĐBQH, tập trung vào việc thực hiện những chính sách của Nhà nước trong những ngày đầu độc lập. Phiên chất vấn đã diễn ra một cách rất dân chủ và kéo dài đến tận nửa đêm mới kết thúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng, “Chính phủ hiện thời mới thành lập được hơn một năm, hãy còn thanh niên. Quốc hội bầu ra được hơn 8 tháng lại còn thanh niên hơn nữa. Vậy mà, Quốc hội đã đặt những câu hỏi thật già dặn, khó trả lời, đề cập tới tất cả những vấn đề có quan hệ đến vận mệnh nước nhà. Với sự trưởng thành chính trị và sự quan tâm về việc nước ấy, ai dám bảo dân ta không có tư cách độc lập?”.
Tiếp đó, trong bản Hiến pháp năm 1959, đối tượng giám sát đã được mở rộng, đồng thời quy định hoạt động giám sát của Quốc hội đối với công tác của Hội đồng Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; mở rộng hơn chủ thể giám sát là quyền giám sát của Quốc hội được tăng cường thông qua hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thực hiện Hiến pháp 1959, hoạt động giám sát của Quốc hội từ Khóa II (1960 - 1964), Khóa III (1964 - 1971), Khóa IV (1971 - 1975), Khóa V (1975 - 1976) và Khóa VI (1976 - 1981) đã từng bước được chú trọng.
Trong đó, giai đoạn Khóa VII (1981-1987) và Khóa VIII (1987- 1992), Quốc hội chủ yếu giám sát tại nghị trường, tập trung vào hình thức xét báo cáo tại kỳ họp Quốc hội do các bộ, ngành báo cáo và thành lập các đoàn giám sát tại địa phương.
Nhớ lại giai đoạn này, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thị Hoài Thu (ĐBQH 6 khóa liên tục, từ Khóa VI đến Khóa XI) chia sẻ, mỗi kỳ họp Quốc hội thường chỉ diễn ra trong 7 - 10 ngày, hoạt động giám sát của Quốc hội chủ yếu thực hiện qua việc xem xét Báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước từng năm hoặc 5 năm.
"Để được trình ra Quốc hội, Báo cáo được Chính phủ được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, chu đáo, đầy đủ với những tập số liệu dày dặn. Do là kế hoạch Nhà nước nên trong Báo cáo của Chính phủ hồi đó có nhiều con số chi li, tỉ mỉ. Mọi nhiệm vụ, chỉ tiêu của đất nước đều được đưa vào Báo cáo như: bao nhiêu mét vải, bao nhiêu tấn muối, tấn đường...", nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thị Hoài Thu cho biết.
Về trình tự, thủ tục, sau khi nghe Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (sau này là Thủ tướng Chính phủ) trình bày Báo cáo trước Quốc hội, Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách sẽ thuyết trình; các đại biểu Quốc hội tiến hành thảo luận ở Đoàn. Tiếp đó, các Đoàn cử người đại diện, thường là Trưởng đoàn, đọc Báo cáo tham luận tại nghị trường, bình luận về việc thực hiện Kế hoạch Nhà nước. "Hồi đó, từng đại biểu Quốc hội chưa đăng ký phát biểu ý kiến như bây giờ”, bà Nguyễn Thị Hoài Thu nói.
Cùng với hình thức giám sát dựa trên Báo cáo của Chính phủ về kế hoạch Nhà nước, Quốc hội cũng xem xét Báo cáo của Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao.
... đến câu chuyện “giá - lương - tiền” và vai trò giám sát của Quốc hội
Một trong những dấu ấn đánh dấu bước chuyển mình trong hoạt động giám sát của Quốc hội là (Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa VIII, các đại biểu Quốc hội tập trung chất vấn, đánh giá những sai lầm, khuyết điểm trong việc thực hiện chính sách “giá - lương - tiền”.
Nhắc lại câu chuyện “giá - lương - tiền”, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thị Hoài Thu cho biết: “Chúng ta đề ra chủ trương cải cách về “giá - lương - tiền”. Nhưng, khi Chính phủ thi hành, thì lại "đi ngược" thành “tiền - lương - giá”. Tiền lúc đó lạm phát phi mã, giá cả leo thang, trong khi tiền lương vẫn giữ ổn định”.
Trong bối cảnh đó, tại Quốc hội, một số đại biểu Quốc hội đã viết tham luận về “giá - lương - tiền” và nộp cho Văn phòng Quốc hội. Đây là một thủ tục “bắt buộc” trước khi tham luận được đọc trước Quốc hội.
Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thị Hoài Thu chia sẻ, bà vẫn nhớ khoảnh khắc ĐBQH Đào Thị Biểu (tỉnh Cửu Long) khi đó, trong phần đầu văn bản, thì đọc giống nội dung đã được “duyệt”, nhưng phần sau, đại biểu đã phản ánh tình hình đời sống khó khăn của cán bộ, Nhân dân là hàng hóa sản xuất ra không bán được vì bị bế quan tỏa cảng; trong khi gạo ở nông thôn đổ cho lợn ăn, còn cán bộ, công nhân viên phải ăn gạo mọt, gạo mục…

Chủ tịch Quốc hội Khóa IX, X Nông Đức Mạnh với nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Nguyễn Thị Hoài Thu và các đại biểu dự Gặp mặt kỷ niệm 55 năm cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu đại biểu Quốc hội Khóa I, ngày 4/1/2001 Ảnh: Tư liệu
"Đại biểu Đào Thị Biểu nói tới đâu, các đại biểu Quốc hội vỗ tay tới đó. Cuối cùng, đại biểu kiến nghị, Chính phủ xem xét, sửa đổi, không thể tiếp tục thực hiện chính sách “tiền - lương - giá” nữa. Bài phát biểu thời điểm đó đã gây chấn động nghị trường, chấn động cả nước”, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thị Hoài Thu kể lại.
Một câu chuyện nữa xuất phát từ thực tiễn tại các địa phương, cơ sở trong nhiệm kỳ Quốc hội Khóa VIII được đưa ra nghị trường liên quan đến việc ban hành Nghị quyết về miễn thuế nông nghiệp theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tại nghị trường khi đó, Quốc hội tính toán, một năm Nhà nước thu được 3.000 tỷ đồng thuế nông nghiệp, nếu miễn đồng nghĩa ngân sách nhà nước sẽ bị hụt 3.000 tỷ đồng. Đây là số tiền rất lớn trong tổng ngân sách thời đó, vì chỉ tính riêng đầu tư cho lĩnh vực y tế cũng không tới 3.000 tỷ đồng/năm.
Cuối cùng, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội ra Nghị quyết, quyết nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác, tập đoàn sản xuất và các hộ nông dân, nhưng tách ra thực hiện trong 2 năm (1990 và 1991), mỗi năm miễn 50% số thuế ghi thu. Với Nghị quyết này, Quốc hội đã thực hiện được lời căn dặn trong Di chúc của Bác Hồ.
Bám sát cơ sở, các đại biểu Quốc hội nhận thấy, trong 2 năm thực hiện nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế nông nghiệp, bà con nông dân phấn khởi chưa từng có. Có bà con chia sẻ rằng, giống như “Đảng, Nhà nước và Bác Hồ cho tiền người dân”; đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt.
Quốc hội cũng thấy rằng, thực ra việc thu thuế nông nghiệp không được bao nhiêu, nhưng hiệu quả xã hội từ việc miễn, giảm thuế này rất lớn, tạo không khí phấn chấn rõ rệt trong xã hội. Tại diễn đàn Quốc hội thời kỳ đó, nhiều Đoàn đã tham luận rất hay, nêu rõ thực trạng bà con nông dân quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng làm nông nghiệp vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết, có lúc không đủ ăn; ở miền Bắc, bà con nông dân phải “chôn chân” dưới bùn sâu trong thời tiết rét buốt... mới làm ra hạt thóc; nên việc nộp thuế nông nghiệp cho Nhà nước là không hợp lý. Vì thế, phải tìm cách khác để miễn giảm hoặc hạ thuế suất nông nghiệp cho người trồng lúa.
“Rõ ràng, phải qua giám sát tại địa phương, cơ sở, thì Quốc hội mới biết được người dân mừng vui ra sao khi được miễn thuế và khổ cực như thế nào để làm ra hạt thóc”, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Nguyễn Thị Hoài Thu nói.
Một dấu mốc đáng chú ý trong hoạt động giám sát, đó là đến năm 1994, Quốc hội đã công khai các phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội để Nhân dân biết, theo dõi và đánh giá thông qua việc phát thanh, truyền hình trực tiếp.
Liên tiếp sau đó, Quốc hội các Khóa IX (1992 - 1997), Khóa X (1997-2002), Khóa XI (2002 - 2007), Khóa XII (2007-2011), Khóa XIII (2011 - 2016), Khóa XIV (2016 - 2021) và Khóa XV hiện nay, hoạt động giám sát của Quốc hội không ngừng được kế thừa, phát huy kinh nghiệm đã tích lũy được, tiếp tục đổi mới toàn diện và mạnh mẽ hơn theo hướng ngày càng dân chủ, bám sát thực tiễn, với chất lượng, hiệu quả và hiệu lực ngày càng được nâng cao, thể hiện rõ vị thế, vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất đại diện cho Nhân dân.