Dựng nền công nghiệp văn hóa Việt
Những năm gần đây, công nghiệp văn hóa đã và đang trở thành một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Việt Nam không đứng ngoài xu thế đó. Từ chỗ chỉ được nhìn nhận như lĩnh vực mang tính tinh thần, văn hóa đã từng bước định vị là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp vào tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tạo sức lan tỏa mạnh mẽ về thương hiệu quốc gia.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tế, quy mô thị trường văn hóa sáng tạo của Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn, mới đóng góp khoảng 4% GDP, thấp hơn nhiều so với mức 7-10% của nhiều quốc gia trong khu vực. Dù sở hữu tiềm năng lớn, song công nghiệp văn hóa nước ta vẫn chưa khai thác hết dư địa phát triển.
Khung pháp lý thiếu tính đồng bộ, chậm thích ứng với thực tiễn; nguồn nhân lực vừa thiếu vừa yếu; đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với tiềm năng… là những nguyên nhân chủ yếu khiến ngành công nghiệp văn hóa chưa phát huy được vị trí xứng đáng. Có những địa phương, đơn vị vẫn chưa coi đây là lĩnh vực có khả năng tạo ra của cải vật chất, sản phẩm tinh thần và sức cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập.
Từ thực tế đó, câu hỏi đặt ra là: Bao giờ Việt Nam có thể phát triển công nghiệp văn hóa tương xứng với tiềm năng, để trở thành một ngành đóng góp mạnh mẽ như cách Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc… đã làm được?
Một bước đi quan trọng vừa được Chính phủ xác lập để trả lời câu hỏi này. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 2486/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Chiến lược xác định 10 ngành công nghiệp văn hóa chủ chốt với định hướng phát triển hiện đại, hội nhập; lấy sáng tạo, công nghệ, bản sắc làm trụ cột. Đây là cơ sở quan trọng nhằm đưa văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh và động lực phát triển của đất nước.
Để chiến lược này đi vào cuộc sống, nhiệm vụ trọng tâm trước mắt đối với các bộ, ngành, địa phương là hoàn thiện thể chế, cải cách chính sách, mở đường cho dòng vốn đầu tư công - tư chảy mạnh vào lĩnh vực văn hóa. Cùng với đó là phát triển nhân lực sáng tạo, bảo đảm chất lượng đào tạo gắn liền nhu cầu thực tiễn; mạnh dạn thu hút tài năng, chuyên gia trong và ngoài nước.
Một trụ cột quan trọng không kém là hạ tầng văn hóa. Việt Nam cần sớm hình thành các trung tâm công nghiệp văn hóa, mạng lưới không gian sáng tạo, phố văn hóa - nghệ thuật, tổ hợp sáng tạo gắn với du lịch và thương hiệu quốc gia, tạo ra các "cực tăng trưởng văn hóa" tại các đô thị lớn và địa phương có dư địa phát triển. Đồng thời, Việt Nam cần khuyến khích các hoạt động mang tính cộng đồng như lễ hội nghệ thuật quốc tế, không gian nghệ thuật công cộng, các dự án bảo tồn - phục dựng di sản bằng công nghệ số.
Mỗi tỉnh, thành phố cũng cần chủ động xây dựng chiến lược công nghiệp văn hóa đặc thù dựa trên bản sắc, di sản và thế mạnh riêng. Đây là cách để ngành công nghiệp văn hóa không phát triển dàn trải, mà hình thành các chuỗi giá trị, các tiểu vùng sáng tạo có sức lan tỏa rộng.
Giai đoạn từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần tập trung đáp ứng thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường có đông cộng đồng người Việt. Mục tiêu là đến năm 2045 các ngành công nghiệp văn hóa phát triển bền vững, đóng góp khoảng 9% GDP, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền công nghiệp văn hóa, giải trí phát triển hàng đầu châu Á.
Đây không chỉ là mục tiêu kinh tế mà còn là khát vọng về một Việt Nam sáng tạo, nơi giá trị văn hóa dân tộc thấm đẫm trong những sản phẩm hiện đại, hấp dẫn, lan tỏa ra thế giới; nơi văn hóa trở thành sức mạnh mềm, góp phần nâng cao vị thế và uy tín quốc gia.
Con đường phía trước còn nhiều thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị cao, chính sách đột phá và sự vào cuộc đồng bộ của toàn hệ thống, Việt Nam hoàn toàn có thể tự tin bước vào kỷ nguyên mới, khẳng định vị thế xứng đáng trên bản đồ công nghiệp văn hóa thế giới.
Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/dung-nen-cong-nghiep-van-hoa-viet-724686.html











