Dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND (sửa đổi): Có quy định thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND?
Tại Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách lần thứ 8, các đại biểu còn băn khoăn về quy định thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND. Có ý kiến cho rằng, hoạt động hiệu quả nhất của Tổ đại biểu HĐND là tiếp xúc cử tri, còn giám sát do nhiều đại biểu kiêm nhiệm là chính, khi triệu tập giám sát đã rất khó, việc theo dõi, đôn đốc kết quả giám sát cũng còn là một câu chuyện.
ĐBQH Mai Văn Hải (Thanh Hóa):
Cân nhắc việc bổ sung nguyên tắc hoạt động giám sát

DBQH Mai Văn Hải (Thanh Hóa). Ảnh Hồ Long
Dự thảo Luật bổ sung nguyên tắc hoạt động giám sát là “bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Đây là một nguyên tắc của Đảng, đã được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng, vì vậy không nên quy định nguyên tắc này trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND.
Với nguyên tắc “bảo đảm gắn kết giữa hoạt động giám sát với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương” được bổ sung trong dự thảo Luật, quy định này là nội dung, không phải nguyên tắc.
Nội dung bảo đảm gắn kết giữa hoạt động giám sát với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương chỉ kết quả của giám sát, được áp dụng để hoàn thiện pháp luật, xem xét để quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Nguyên tắc phải xuyên suốt trong quá trình hoạt động giám sát, tức là từ khi chọn vấn đề giám sát, xây dựng kế hoạch giám sát đến khi triển khai trực tiếp giám sát và kết thúc cuộc giám sát. Do vậy, đề nghị ban soạn thảo cân nhắc, nghiên cứu việc bổ sung nguyên tắc nêu trên.
Đề nghị rà soát lại Điều 25, dự thảo Luật quy định về thẩm quyền và hoạt động giám sát của ĐBQH, bởi lẽ việc giám sát độc lập của đại biểu rất ít. Nếu quy định ĐBQH có thẩm quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương sẽ rất khó thực hiện. Nên chăng, chỉ quy định trách nhiệm giám sát của ĐBQH là thực hiện chất vấn, các nội dung khác ĐBQH tham gia cùng Đoàn ĐBQH các tỉnh, thành phố sẽ phù hợp hơn.
ĐBQH Hoàng Quốc Khánh (Lai Châu):
Cân nhắc việc công khai kế hoạch giám sát

DBQH Hoàng Quốc Khánh (Lai Châu). Ảnh Hồ Long
Dự thảo Luật bổ sung quy định mới về công khai, minh bạch trong hoạt động giám sát. Theo đó, chương trình, kế hoạch giám sát, nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát và báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát phải được đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của Quốc hội, HĐND, đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc công khai bằng một trong các hình thức khác theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tuy nhiên, đề nghị cân nhắc quy định đăng tải kế hoạch giám sát trên các phương tiện thông tin, bởi kế hoạch giám sát là chương trình nội bộ của Đoàn giám sát, có thể điều chỉnh do điều kiện khách quan, chủ quan.
Liên quan đến thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND, dự thảo Luật đang thể hiện 2 phương án. Phương án 1, không quy định thẩm quyền của Tổ đại biểu HĐND. Phương án 2, quy định tại Điều 37, thẩm quyền và hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND là: "Tổ đại biểu HĐND giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương khi được HĐND hoặc Thường trực HĐND cùng cấp giao".
Từ thực tế tham gia đại biểu HĐND tỉnh cho thấy, hiệu quả nhất trong hoạt động của Tổ đại biểu HĐND là tiếp xúc cử tri, còn giám sát chưa thật sự hiệu quả, do có nhiều đại biểu kiêm nhiệm là chính, khi triệu tập giám sát đã khó, thì theo dõi kết quả giám sát, đôn đốc như thế nào cũng là một câu chuyện.
Nếu Tổ đại biểu HĐND giám sát rồi, các đơn vị khác không giám sát nữa sẽ đặt ra câu chuyện chất lượng, hiệu quả giám sát. Do vậy, tôi chọn phương án 1, không quy định thẩm quyền của Tổ đại biểu HĐND.
ĐBQH Nguyễn Minh Tâm (Quảng Trị):
Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện kết luận sau giám sát

ĐBQH Nguyễn Minh Tâm (Quảng Trị) phát biểu. Ảnh Hồ Long
Tại khoản 2, Điều 40 về bảo đảm việc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát có quy định: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH, Thường trực HĐND, Ban của HĐND và đại biểu HĐND có trách nhiệm thường xuyên theo dõi, đôn đốc, xem xét việc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát; trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát, thì yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đó báo cáo giải trình. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giải trình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp bất khả kháng hoặc có nhiều nội dung phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 30 ngày. Quá thời hạn này mà không nhận được trả lời hoặc không tán thành với nội dung giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát thì quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan".
Tuy nhiên, dự thảo Luật lại chưa quy định cụ thể việc xử lý như thế nào với cơ quan không thực hiện các quy định liên quan đến việc thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát để dẫn chiếu. Vì vậy, đề nghị dẫn chiếu cụ thể các quy định pháp luật có liên quan hoặc bổ sung nội dung xử lý để bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện kết luận sau giám sát.