Dữ liệu và vai trò của dữ liệu trong kỷ nguyên số
Chuyển đổi số là một xu hướng tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong cách mạng chuyển đổi số, đi cùng với hạ tầng thiết bị về công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng về dữ liệu đóng vai trò then chốt.

Hạ tầng chuyển đổi số, ứng dụng các công nghệ số, dữ liệu số tại một địa phương. (Ảnh: TTXVN)
Tại Việt Nam, chuyển đổi số đã được xác định là động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, được đặc biệt quan tâm, đầu tư, tạo điều kiện và triển khai thực hiện.
Dữ liệu và vai trò của dữ liệu
Theo điều 4 Luật Giao dịch điện tử ban hành ngày 29/11/2005, dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự. Như vậy, có thể thấy, dữ liệu có thể bao gồm các số liệu, chữ cái, hình ảnh, âm thanh, hoặc các ký hiệu khác; là tập hợp các thông tin được thu thập, ghi lại và lưu trữ để sử dụng trong quá trình phân tích, nghiên cứu hoặc ra quyết định.
Trong chuyển đổi số, dữ liệu được ví như “trái tim”, “mạch máu” của mọi hoạt động của tổ chức. Một nền tảng dữ liệu mạnh không chỉ bảo đảm sự thành công của quá trình số hóa mà còn giúp tổ chức duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh. Dữ liệu tốt và thông tin thống kê đầy đủ, minh bạch sẽ làm tăng hiệu quả quản lý, khai thác sử dụng và phát triển kinh tế.
Báo cáo năm 2022 do Hãng nghiên cứu thị trường Statista thống kê cho thấy, quy mô doanh thu của thị trường dữ liệu lớn toàn cầu đã vượt mức 271 tỷ USD vào cuối năm 2022 và ước đạt 308 tỷ USD trong năm 2023. Dự báo con số này sẽ tăng mạnh, đạt hơn 655 tỷ USD vào năm 2029.
Xu thế này cho thấy dữ liệu không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi là một công cụ phục vụ cho quản lý, điều hành mà còn là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Quy mô doanh thu của thị trường dữ liệu lớn toàn cầu giai đoạn 2021 - 2029 (tỷ USD) (5)

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước OECD đang nỗ lực để mở rộng quyền truy cập vào “dữ liệu thông minh” - điều này bao gồm cả dữ liệu lớn cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng dữ liệu hành chính, thương mại và không gian địa lý. Khảo sát về mức độ phát triển về hạ tầng dữ liệu mở do Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) tiến hành ở các nước thành viên và đối tác của OECD thông qua Bộ chỉ số OURData (Open, Useful and Re-usable Data) Index dựa trên 3 khía cạnh chính là: khả năng sẵn có của dữ liệu được chia sẻ (data availability); khả năng truy cập và tính hiệu dụng của dữ liệu (data accessibility); và mức độ hỗ trợ của Chính phủ trong việc tái sử dụng dữ liệu (data reusable), OECD khuyến nghị các nước nên đẩy mạnh việc cung cấp và sử dụng dữ liệu mở của chính phủ trong các lĩnh vực như khu vực công để xây dựng chính phủ liêm chính và phát triển bền vững.
Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng như vậy, xây dựng hệ sinh thái dữ liệu là một trong các chiến lược quan trọng của chuyển đổi số tại mỗi quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, Nghị định số 47/2020/NĐ-CP về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước và gần đây nhất, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định rõ vai trò then chốt của dữ liệu trong quá trình Chuyển đổi số khi khẳng định: Dữ liệu là trung tâm của chuyển đổi số, là động lực quan trọng cho sự phát triển.
Phát biểu tại Lễ ra mắt Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia (NDA), Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Chúng ta đang bước vào giai đoạn bình minh của kỷ nguyên số, thời kỳ dữ liệu đã trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng, trở thành năng lượng mới, thậm chí là "máu" của nền kinh tế số. Để chuyển đổi số thành công, cần phải có chính sách kiến tạo hệ sinh thái dữ liệu đủ mạnh, xây dựng các tiền đề cho sự ra đời và hình thành ngành công nghiệp dữ liệu.
Khai thác sức mạnh dữ liệu - những bước đi của Việt Nam trong kỷ nguyên số
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ công cuộc chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Điển hình như: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030, xác định rõ 3 trụ cột gồm Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số. Đây là kim chỉ nam quan trọng cho tiến trình chuyển đổi số toàn diện, sâu rộng và bền vững tại Việt Nam.
Việc thực hiện chuyển đổi số tiếp tục được khẳng định rõ qua các Quyết định số 749/QĐ-TTg, 942/QĐ-TTg và 2289/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 34/CT-TTg về việc xây dựng đề án chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương, v.v..
Tại Đại hội XIII của Đảng, chuyển đổi số được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Chủ trương này tiếp tục được cụ thể hóa trong các chỉ đạo gần đây của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là thông điệp của Tổng Bí thư Tô Lâm trong một số bài viết, bài phát biểu quan trọng thời gian qua. Trong đó, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định chuyển đổi số là động lực quan trọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới; chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế-xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số” và dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng. Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng…
Quán triệt, triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển khoa học-công nghệ, thời gian qua, công tác xây dựng, tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu đã đạt được một số kết quả tích cực, như: thành lập Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia với 7 nhiệm vụ trọng tâm nhằm tạo điều kiện cho dữ liệu được tập hợp, lưu chuyển, kết nối, chia sẻ và được khai thác tối đa nhưng vẫn bảo đảm an ninh, an toàn và chủ quyền dữ liệu; hành lang pháp lý, tiêu chuẩn, quy chuẩn về dữ liệu đã được ban hành tương đồng với xu hướng chung của thế giới; bước đầu đã đưa vào vận hành, khai thác sử dụng chung 7 cơ sở dữ liệu quốc gia.
5/7 cơ sở dữ liệu quốc gia (dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm, hộ tịch điện tử, cán bộ công chức, viên chức) đã cơ bản hoàn thành, đưa vào khai thác, kết nối, chia sẻ dữ liệu trên quy mô toàn quốc mang lại những giá trị đo lường được; một số cơ sở dữ liệu quốc gia đã có sự kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu góp phần cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân; nhiều địa phương (điển hình như TP Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh,…) đã bắt đầu xây dựng, đưa vào khai thác các kho dữ liệu dùng chung, cung cấp dữ liệu mở phục vụ xử lý thủ tục hành chính, công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo các cấp theo hướng dựa trên số liệu “đúng, đủ, sạch, sống”.
Từ những nỗ lực trên, Việt Nam đã ghi nhận những bước tiến đáng kể trong các bảng xếp hạng toàn cầu liên quan đến chuyển đổi số. Cụ thể, theo Liên hợp quốc, năm 2024, Việt Nam đã cải thiện vị trí trong Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI), tăng 15 bậc, xếp hạng 71/193 quốc gia. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) tăng 2 bậc, xếp hạng 44/133. Chỉ số an toàn, an ninh mạng toàn cầu năm 2024 tăng 8 bậc, xếp hạng 17/194 (3).
Tuy nhiên, quá trình hoạt động đã bộc lộ những hạn chế như: Một số bộ, ngành không có hoặc có nhưng hạ tầng chưa đủ để triển khai các hệ thống công nghệ thông tin cốt lõi phục vụ các công tác nghiệp vụ; phần lớn các cơ sở dữ liệu được xây dựng trên nhu cầu thực tiễn cụ thể tại đơn vị sử dụng và thường không được chuẩn hóa để chia sẻ cho các đơn vị bên ngoài. Ngay cả trong trường hợp dữ liệu chia sẻ được tiêu chuẩn hóa thì cũng chưa có sự thống nhất về phần mềm, tiêu chuẩn định dạng, mã định danh... từ đó gây ra nhiều khó khăn cho các đơn vị cần tích hợp khai thác dữ liệu từ nhiều nguồn, lĩnh vực khác nhau để phục vụ nhu cầu công việc. Điều này tác động đến chất lượng của dữ liệu trên các phương diện về tính đầy đủ, tính toàn diện, tính cập nhật, tính liên thông, tính phân cấp và tạo ra sự đứt quãng, phân mảnh dữ liệu, thiếu tính nhất quán, đồng bộ về thông tin quản lý giữa các cơ quan trên phạm vi cả nước, từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả khai thác, sử dụng.
Kết luận
Là một loại “tài nguyên” đặc biệt, dữ liệu quy mô càng lớn thì giá trị càng cao, càng được chia sẻ và tái sử dụng càng tạo ra giá trị. Trong bối cảnh cách mạng khoa học, kỹ thuật, sự bùng nổ của Cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số trở thành lời giải cho bài toán phát triển đất nước hiện nay. Phát biểu tại Lễ ra mắt NDA, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Đảng và Nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi, hỗ trợ tối đa cho sự phát triển của lĩnh vực dữ liệu, để Việt Nam sớm trở thành một quốc gia số, một xã hội số, một nền kinh tế số thịnh vượng.
Đảng và Nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi, hỗ trợ tối đa cho sự phát triển của lĩnh vực dữ liệu, để Việt Nam sớm trở thành một quốc gia số, một xã hội số, một nền kinh tế số thịnh vượng.
Tổng Bí thư Tô Lâm
Trong đó Tổng Bí thư yêu cầu tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới.
Để thực hiện được mục tiêu trên, để dữ liệu thực sự là máu, trái tim của quá trình chuyển đổi số, việc tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về dữ liệu, tạo điều kiện cho dữ liệu được tập hợp, lưu chuyển, kết nối, chia sẻ và được khai thác tối đa nhưng vẫn bảo đảm an ninh, an toàn và chủ quyền dữ liệu – như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm là vô cùng cần thiết. Quá trình hoàn thiện thể chế cần chú ý đến quy định về truy cập và chia sẻ thông tin giữa các bộ dữ liệu để đảm bảo tính đồng bộ và đảm bảo tính truy cập giữa chính quyền địa phương với Trung ương; bảo đảm tính phân loại giữa dữ liệu mở, và quyền riêng tư, bảo mật dữ liệu.
Đồng thời, cần tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức và người dân để sử dụng có hiệu quả dữ liệu mở. Trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số; đồng thời hỗ trợ đẩy mạnh xây dựng hạ tầng dữ liệu tiên tiến, bao gồm cả các trung tâm dữ liệu do Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đầu tư.
____________
Tài liệu tham khảo:
1. Tổng Bí thư Tô Lâm: “Dữ liệu là trung tâm của chuyển đổi số”
2. Tổng Bí thư Tô Lâm: Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
3. Minh Hoàng (2025). Bước tiến mạnh mẽ của Việt Nam trong xếp hạng về chuyển đổi số quốc tế. https://thitruongtaichinhtiente.vn/buoc-tien-manh-me-cua-viet-nam-trong-xep-hang-ve-chuyen-doi-so-quoc-te-66353.html#:~:text=Vi%E1%BB%87t%20Nam%20c%C3%B3%20b%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ti%E1%BA%BFn,%2C%20x%E1%BA%BFp%20h%E1%BA%A1ng%2017%2F194.
4.https://web-archive.oecd.org/2020-03-10/547558-ourdata-index-policy-paper-2020.pdf
5. https://ictvietnam.vn/nen-kinh-te-du-lieu-mo-ra-tuong-lai-cua-viec-tao-ra-gia-tri-dua-tren-thong-tin-64798.html
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/du-lieu-va-vai-tro-cua-du-lieu-trong-ky-nguyen-so-post899625.html