Du lịch y tế Việt Nam: Đón bệnh nhân, mở cánh cửa hội nhập' Bài 4: Hóa giải điểm nghẽn, khai mở tiềm năng

Dù Việt Nam sở hữu nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch y tế và du lịch chăm sóc sức khỏe nhưng lượng khách du lịch y tế nước ngoài đến vẫn còn khiêm tốn. Do đó du lịch y tế Việt Nam vẫn chưa thể bật lên thành một ngành kinh tế có thương hiệu và phát triển quy mô đúng với tiềm năng của nó. Bởi vậy, để biến tiềm năng thành thế mạnh thực sự, cần thẳng thắn nhìn vào những điểm nghẽn còn tồn tại về chính sách, cơ chế liên ngành, thương hiệu quốc gia và dịch vụ hỗ trợ. Hóa giải những rào cản này sẽ mở ra cơ hội để Việt Nam vươn lên trở thành điểm đến du lịch y tế uy tín trong khu vực và quốc tế.

Dù Việt Nam sở hữu nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch y tế và du lịch chăm sóc sức khỏe nhưng lượng khách du lịch y tế nước ngoài đến vẫn còn khiêm tốn. Do đó du lịch y tế Việt Nam vẫn chưa thể bật lên thành một ngành kinh tế có thương hiệu và phát triển quy mô đúng với tiềm năng của nó. Bởi vậy, để biến tiềm năng thành thế mạnh thực sự, cần thẳng thắn nhìn vào những điểm nghẽn còn tồn tại về chính sách, cơ chế liên ngành, thương hiệu quốc gia và dịch vụ hỗ trợ. Hóa giải những rào cản này sẽ mở ra cơ hội để Việt Nam vươn lên trở thành điểm đến du lịch y tế uy tín trong khu vực và quốc tế.

Dù có những tiềm năng và lợi thế nhưng du lịch y tế vẫn chưa thể bứt phá, lượng khách đến chưa nhiều bởi còn những hạn chế. Xung quanh vấn đề này, ông Phạm Hải Quỳnh - Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á phân tích: Việt Nam đã có những bệnh viện (BV) tư nhân hiện đại nhưng nhìn chung, cơ sở vật chất, trang thiết bị tại nhiều BV công lập và phòng khám vẫn chưa đồng bộ, chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Việc thiếu các chứng nhận quốc tế uy tín như JCI (Joint Commission International) khiến du khách quốc tế chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng dịch vụ, bởi các tiêu chuẩn này không chỉ đảm bảo chất lượng y tế mà còn giúp xây dựng lòng tin khách hàng.

Đến nay, du lịch y tế Việt Nam vẫn chưa có một thương hiệu quốc gia rõ ràng, thiếu các chiến lược marketing và quảng bá chuyên nghiệp ra thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa ngành y tế, du lịch và các ngành liên quan khác còn lỏng lẻo; mỗi bên hoạt động độc lập, dẫn đến việc thiếu các gói sản phẩm du lịch y tế tích hợp và toàn diện. Trong khi đó, các quy định về cấp phép cho các dịch vụ y tế liên quan đến du lịch còn phức tạp, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.

Thời gian gần đây, nhiều công ty du lịch đã triển khai các tour kết hợp chăm sóc sức khỏe, làm đẹp và nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, hiệu quả vẫn chưa rõ nét. Các tour chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực nhất định, nổi bật là dịch vụ nha khoa với chi phí thấp hơn nhiều so với quốc tế. Một số tour kết hợp phẫu thuật thẩm mỹ, làm đẹp không xâm lấn cũng được quảng bá trên mạng xã hội. Những chương trình này thường diễn ra tại các khu nghỉ dưỡng cao cấp, kết hợp yoga, thiền, spa, detox và ẩm thực thực dưỡng. Dù vậy, hoạt động vẫn mang tính nhỏ lẻ, thiếu liên kết giữa các bên và chưa có chiến lược phát triển lâu dài. Nhiều tour còn tự phát, thiếu tính chuyên nghiệp.

Theo chia sẻ của ông Phạm Hải Quỳnh, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đều là những trung tâm y tế hàng đầu của cả nước. Tuy nhiên, hoạt động thu hút khách du lịch y tế tại hai TP này vẫn còn nhiều bất cập. Dù sở hữu hệ thống BV lớn và mạng lưới công ty du lịch dày đặc, sự phối hợp giữa ngành y tế và du lịch vẫn rời rạc, thiếu tính kết nối hiệu quả.

Hiện tại, các sản phẩm du lịch y tế ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh vẫn chưa định hình được bản sắc riêng. Các doanh nghiệp du lịch thường thiếu hiểu biết chuyên sâu về lĩnh vực y tế, trong khi các cơ sở y tế lại ít kinh nghiệm trong lĩnh vực du lịch và tiếp thị. Một số BV công lập chưa sẵn sàng phục vụ bệnh nhân quốc tế, còn khối tư nhân tuy có dịch vụ cao cấp nhưng chi phí đắt đỏ và độ tin cậy vẫn chưa được khẳng định rộng rãi.

Tại các địa phương khác, du lịch y tế chủ yếu phát triển theo hướng nghỉ dưỡng kết hợp chăm sóc sức khỏe, tận dụng lợi thế tự nhiên như suối khoáng nóng, bùn khoáng, tắm thảo dược và các liệu pháp y học cổ truyền.

Nhằm quảng bá dịch vụ du lịch y tế, từ tháng 7/2020, Sở Du lịch và Sở Y tế TP Hồ Chí Minh đã ra mắt trang thông tin chính thống cung cấp dữ liệu về các cơ sở y tế và dịch vụ liên quan. Tuy nhiên, theo PGS.TS Phạm Trung Lương - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Du lịch, TP Hồ Chí Minh, hiện mới chỉ dừng ở việc giới thiệu địa chỉ điều trị bệnh, chưa xây dựng được sản phẩm du lịch y tế trọn gói kết hợp nghỉ dưỡng và phục hồi sức khỏe.

Tương tự, Hà Nội cũng sở hữu nhiều cơ sở y tế chất lượng, nhưng chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành y tế và du lịch để hình thành sản phẩm hấp dẫn. Theo ông Lương, để phát triển du lịch y tế, Hà Nội cần kết nối với các điểm đến có tiềm năng nghỉ dưỡng như Kim Bôi (Hòa Bình), Quảng Ninh, hay các vùng biển, nhằm thu hút du khách vừa chữa bệnh, vừa nghỉ dưỡng.

Nắm bắt tiềm năng và lợi thế của du lịch y tế, Công ty Du lịch WonderTour đã bước đầu khai thác những sản phẩm gắn với chăm sóc sức khỏe, cụ thể như tour nghỉ dưỡng kết hợp detox, yoga, thiền, tắm khoáng nóng hay các chuyến đi trải nghiệm vùng trồng dược liệu. Đây là những loại hình phù hợp với xu hướng hậu đại dịch Covid-19, khi khách quốc tế ngày càng ưu tiên các hoạt động chăm sóc thể chất và tinh thần.

Theo Tổng Giám đốc Công ty Du lịch WonderTour Lê Công Năng, khó khăn lớn nhất khi triển khai loại hình này là sự phối hợp giữa doanh nghiệp du lịch và cơ sở y tế. Ngành du lịch có thế mạnh tổ chức, nhưng thiếu chuyên môn y tế, trong khi BV có năng lực chuyên môn nhưng lại chưa quen với việc thiết kế sản phẩm du lịch. Thêm vào đó, các quy định pháp lý, tiêu chuẩn dịch vụ và vấn đề bảo hiểm cho khách quốc tế vẫn chưa đồng bộ, nên doanh nghiệp gặp nhiều thách thức khi muốn mở rộng quy mô.

Theo các chuyên gia, Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển du lịch y tế, nhưng lượng khách quốc tế còn khiêm tốn. TS Nguyễn Thị Thu Mai - Trưởng khoa Du lịch, Trường Đại học Mở Hà Nội nhận định, nguyên nhân chính là do Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu quốc gia về du lịch y tế, trong khi các nước như Thái Lan, Singapore đã định vị rõ ràng trên thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó, sự kết nối giữa doanh nghiệp du lịch và cơ sở y tế còn lỏng lẻo; thiếu chiến dịch truyền thông đồng bộ, rào cản ngôn ngữ và thủ tục hỗ trợ chưa thuận tiện cho khách nước ngoài.

TS Thu Mai cũng cho rằng, khó khăn lớn hiện nay là thiếu khung pháp lý và tiêu chuẩn dịch vụ rõ ràng. Nguồn nhân lực còn thiếu đội ngũ am hiểu cả du lịch và y tế; trong khi nhiều y bác sĩ tuy giỏi chuyên môn nhưng còn hạn chế về ngoại ngữ, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ. Để đạt chuẩn quốc tế, các cơ sở y tế cần tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ và nâng cao dịch vụ hỗ trợ khách hàng.

Để phát triển du lịch y tế, theo Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á Phạm Hải Quỳnh, mỗi địa phương cần xác định thế mạnh riêng, như Sa Pa, Lạng Sơn, Ba Vì với bài thuốc dân tộc; các vùng biển với bùn khoáng và thủy trị liệu. Đồng thời, cần đầu tư vào những trung tâm chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, đạt chuẩn quốc tế, và xây dựng các gói dịch vụ trọn gói kết hợp điều trị, nghỉ dưỡng, khám phá văn hóa.

Riêng Hà Nội có thể quy hoạch các tuyến phố chuyên biệt về dịch vụ y tế cao cấp, liên kết với khu nghỉ dưỡng. Thành phố cũng nên có chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục để thu hút đầu tư vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh quảng bá thông qua hội thảo, triển lãm quốc tế và hợp tác với các trường y để đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn, ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ khách quốc tế.

Trực tiếp xây dựng và thực hiện tour du lịch y tế, ông Lê Công Năng cho rằng, việc xây dựng đề án quốc gia về du lịch y tế là rất cần thiết. Đây là cơ sở để Việt Nam có chiến lược tổng thể, xác định rõ sản phẩm mũi nhọn, tạo thương hiệu và chuẩn hóa chất lượng dịch vụ. Đề án quốc gia về du lịch y tế cũng sẽ giúp phân vai rõ ràng cho các địa phương: Hà Nội tập trung vào thế mạnh bệnh viện tuyến T.Ư, dịch vụ KCB kết hợp văn hóa đô thị; TP Hồ Chí Minh phát triển phẫu thuật thẩm mỹ và nghỉ dưỡng cao cấp; các tỉnh miền Trung và miền Bắc khai thác du lịch khoáng nóng, dược liệu, thực dưỡng. Riêng với Hà Nội, chính sách đột phá cần hướng vào việc xây dựng mô hình “thành phố du lịch y tế” gắn với các BV lớn. TP Hà Nội cũng cần tạo điều kiện để BV liên kết trực tiếp với doanh nghiệp du lịch; đồng thời khuyến khích đầu tư các trung tâm chăm sóc sức khỏe quốc tế tích hợp dịch vụ nghỉ dưỡng, ẩm thực và văn hóa.

Việc phát triển sản phẩm du lịch y tế được kỳ vọng sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng du lịch và nâng cao vị thế cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường y tế và du lịch thế giới. Theo PGS.TS Phạm Trung Lương, Việt Nam có loại hình du lịch tiềm năng, chúng ta cần khai thác để phát triển du lịch. Khách du lịch y tế có nhiều tiền và có thời gian nên chi tiêu rất lớn. Phát triển du lịch y tế là cách để Việt Nam chuyển dần từ tăng trưởng số lượng sang chất lượng. Và trong thương hiệu du lịch quốc gia có những phân nhánh, đối với du lịch y tế thì có thể là “Việt Nam - điểm đến du lịch y tế hàng đầu khu vực”. Đầu tiên, chúng ta phải nhận thức được vấn đề đó. Và sau nữa là hành động từ những đề án cụ thể với sự tham gia của ngành Du lịch, ngành Y tế, rồi những ngành liên quan khác như Ngoại giao, Giao thông...

Ông Phạm Hải Quỳnh - Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á cho rằng, để du lịch y tế trở thành một trụ cột mới, Nhà nước và Bộ VHTT&DL cần có những chính sách cụ thể mang tính đột phá như: Sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để quản lý và khuyến khích phát triển du lịch y tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Bộ VHTT&DL phối hợp với Bộ Ngoại giao quảng bá hình ảnh Việt Nam là điểm đến du lịch y tế an toàn, chuyên nghiệp và chi phí hợp lý trên các kênh truyền thông quốc tế. Bộ VHTT&DL và Bộ Y tế xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu về du lịch y tế, chú trọng ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và y đức. Bên cạnh đó, tập trung vào những lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh như nha khoa, phẫu thuật thẩm mỹ, y học cổ truyền, và các liệu pháp chăm sóc sức khỏe tự nhiên. Khuyến khích BV tư nhân đầu tư vào các dịch vụ y tế chất lượng cao, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp du lịch.

Phía doanh nghiệp lữ hành mong muốn, Nhà nước sớm ban hành khung pháp lý rõ ràng, chính thức công nhận du lịch y tế là một lĩnh vực kinh tế - dịch vụ đặc thù để dễ dàng quản lý và phát triển. Bộ VHTT&DL cùng Bộ Y tế phối hợp xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ y tế kết hợp du lịch theo chuẩn quốc tế. Song song đó, triển khai chiến dịch quảng bá tại các thị trường trọng điểm như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, châu Âu, nơi có nhu cầu du lịch y tế lớn. Một yếu tố không kém phần quan trọng là phát triển nguồn nhân lực. Theo đó, chúng ta cần những hướng dẫn viên am hiểu về y tế, cùng các bác sĩ có kỹ năng giao tiếp quốc tế, được hỗ trợ bởi đội ngũ quản lý du lịch chuyên nghiệp.

Để du lịch y tế thực sự trở thành một ngành kinh tế tiềm năng, không chỉ cần khai thác lợi thế sẵn có mà còn phải hóa giải những điểm nghẽn về liên kết, chất lượng dịch vụ và chiến lược phát triển dài hạn. Sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch và y tế, cùng với chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, sẽ là chìa khóa để mở ra cánh cửa tăng trưởng bền vững, nâng tầm thương hiệu Việt Nam trên bản đồ du lịch chăm sóc sức khỏe của khu vực và thế giới.

Xem các bài viết liên quan đến loạt bài “Du lịch y tế Việt Nam: Đón bệnh nhân, mở cánh cửa hội nhập”:

Bài 1: Cơ hội vàng giữa dòng chảy toàn cầu

Bài 2: Điểm đến hy vọng của bệnh nhân quốc tế

Bài 3: Kinh nghiệm quốc tế - đòn bẩy cho du lịch y tế Việt

Bài cuối: Nâng tầm thương hiệu quốc gia

Monday, 06:32 08/09/2025

Nguồn KTĐT: https://kinhtedothi.vn/loat-bai-du-lich-y-te-viet-nam-don-benh-nhan-mo-canh-cua-hoi-nhap-bai-4-hoa-giai-diem-nghen-khai-mo.835831.html