Định hình chiến lược y tế Việt Nam hiện đại, công bằng và bền vững
Ngày 23/12, Báo Đại biểu Nhân dân đã tổ chức Talkshow với chủ đề 'Chiến lược y tế: Hướng đến một hệ thống y tế công bằng, bền vững, hiện đại'.
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, hệ thống y tế cần thực hiện tốt đồng thời cả ba vai trò: là trụ cột vững chắc về an sinh xã hội và phát triển con người; là lá chắn tin cậy bảo đảm an ninh y tế; là ngành dịch vụ đặc biệt đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách trong phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện chính sách, tăng cường tự chủ và thúc đẩy liên kết, đảm bảo lộ trình xây dựng các chiến lược quốc gia về y tế, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Tọa đàm “Chiến lược y tế: Hướng đến một hệ thống y tế công bằng, bền vững, hiện đại”.

Đổi mới đào tạo nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu mới
Nhận định về chiến lược chăm sóc sức khỏe của nhân dân trong giai đoạn tới, GS.TS.BS Nguyễn Hữu Tú - Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội cho rằng với ba trụ cột rất rõ ràng đã thể hiện đầy đủ trách nhiệm, cũng như ý nghĩa, vai trò của ngành y tế đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung và nhiệm vụ bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân nói riêng.
Chính vì vậy, các chính sách đi kèm trong lĩnh vực y tế sẽ tạo cơ hội cũng như động lực rất lớn cho hệ thống y tế, cho các cơ sở đào tạo, các trường đại học đào tạo trong lĩnh vực y tế, đóng góp nhiều hơn cho các mục tiêu chung của ngành y tế.
Về công tác đào tạo của ngành y tế nói chung, GS.TS.BS Nguyễn Hữu Tú cho rằng để đáp ứng yêu cầu thực tiễn thì hiện nay các cơ sở đào tạo cần bám sát vào chuẩn năng lực tối thiểu mà Bộ Y tế ban hành cho các chức danh, đặc biệt là bác sĩ, dược sĩ.
Cùng với đó việc đổi mới đào tạo nhân lực trong lĩnh vực y tế, cụ thể là đào tạo dựa trên năng lực, được xác định bởi những căn cứ khoa học và thực tế cũng đang được đẩy mạnh.
“Mô hình bệnh tật đã thay đổi so với trước đây ví dụ trước đây chủ yếu là các bệnh truyền nhiễm, còn bây giờ bệnh không lây nhiễm là chính; nhu cầu của xã hội về khám chữa bệnh cũng đã cao hơn rất nhiều so với trước đây. Còn cả vấn đề hội nhập quốc tế, chúng ta không thể nào phát triển và cạnh tranh nếu không hội nhập quốc tế”, Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội nhấn mạnh.
Trong đó, các chính sách trong lĩnh vực y tế được xây dựng và thực hiện trong thời gian tới cần đặc biệt được quan tâm. Lấy ví dụ về Luật Khám, chữa bệnh (sửa đổi) trong đó có kỳ thi đánh giá năng lực khám chữa bệnh để cấp chứng chỉ hành nghề, theo GS.TS.BS Nguyễn Hữu Tú đây là một kỳ thi quốc gia đầu tiên được thực hiện. Đó là thước đo, sự đảm bảo cho chất lượng của cán bộ y tế đặc biệt là các bác sĩ và dược sĩ để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, của ngành y tế trong giai đoạn mới.

GS.TS.BS Nguyễn Hữu Tú nhấn mạnh yêu cầu đổi mới đào tạo nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Ảnh: Mạnh Hưng
Chia sẻ về khả năng kết nối giữa Viện - Trường - Doanh nghiệp dược trong nghiên cứu và phát triển thuốc mới cũng như nâng cao năng lực tự cường y tế, Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội nhận định đây là sự kết nối cần thiết và bắt buộc nếu muốn phát triển những sản phẩm thuốc mới.
Trong đó, Trường đại học là nơi có đầy đủ nguồn lực các nhà nghiên cứu, các thầy các cô, là nơi tập trung nhiều nguồn chất xám tinh hoa để có thể thực hiện các nghiên cứu. Tuy nhiên, trường đại học lại là đơn vị thường không đủ cơ sở vật chất, không đủ trang thiết bị, đặc biệt là nhà xưởng, nhà máy để có thể nghiên cứu, thực hành, thử nghiệm và sản xuất đưa ra thị trường. Từ đó, việc kết hợp giữa viện, trường và doanh nghiệp là rất cần thiết đảm bảo tính bền vững để theo đuổi được những dự án nghiên cứu tốn kém, lâu dài,
GS.TS.BS. Nguyễn Hữu Tú cũng cho biết, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị cùng với hành lang chính sách được ban hành đã giải quyết được một vấn đề lâu nay các trường đại học không làm được.
“Việc thành lập hay hợp tác với các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước để có thể nghiên cứu, phát triển, tạo ra sản phẩm mới cần đầu tư tốn kém giờ đây đã được “cởi trói” nhờ hành lang pháp lý đầy đủ”, Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội nhận định.
Trước thực tế đó, GS.TS.BS. Nguyễn Hữu Tú kiến nghị cần tiếp tục nâng cao hơn nữa tuyến y tế cơ sở thông qua việc hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật và các chiến lược quốc gia. Để làm được điều đó, việc ứng dụng chuyển đổi số là rất cần thiết.
Trong đó, việc kết nối dữ liệu giữa các tuyến với nhau đặc biệt là giữa y tế cơ sở với y tế tuyến trên để đảm bảo thống nhất về mặt chuyên môn. Đồng thời giám sát, thực hiện các yêu cầu, quy định, chính sách để tạo nên một bộ dữ liệu lớn nhằm theo dõi sức khỏe. Từ đó có cơ sở khoa học để xây dựng và sửa đổi các chính sách, đặc biệt là những chính sách liên quan đến hệ thống y tế cơ sở.
Đối với các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu như Đại học Y Hà Nội, một bộ dữ liệu lớn là một tài sản rất quý đối với nhà trường để tiếp tục nghiên cứu phục vụ cho hệ thống y tế.
“Trong 5-10 năm tới, với công cuộc chuyển đổi số của đất nước và của hệ thống y tế, chúng tôi hy vọng các trường đại học cũng sẽ đóng một vai trò trong công cuộc này và chúng tôi cũng sẵn sàng tham gia để góp phần xây dựng một hệ thống y tế cơ sở mang tính hệ thống, kết nối và hiệu quả”, GS.TS.BS. Nguyễn Hữu Tú nhấn mạnh.

Hai khách mời tham gia Talkshow “Chiến lược y tế: Hướng đến một hệ thống y tế công bằng, bền vững, hiện đại”. Ảnh: Mạnh Hưng
Xây dựng cơ chế khuyến khích người dân - doanh nghiệp - tổ chức xã hội
Đồng tình với nhận định của GS.TS.BS. Nguyễn Hữu Tú về việc cần nâng cao năng lực hệ thống tuyến y tế cơ sở, Đại biểu Quốc hội Trần Khánh Thu cho rằng nguồn nhân lực luôn là vấn đề trọng yếu nhất đối với ngành y tế nói chung và đặc biệt là y tế cơ sở nói riêng.
Theo đại biểu Trần Khánh Thu, để đào tạo được một nhân viên y tế hay một bác sĩ không phải câu chuyện một sớm một chiều. Thời gian 6 năm ở trong trường đại học chỉ là tiền đề, sau đó các bác sĩ còn phải học để có thể triển khai và thực hiện được các dịch vụ y tế trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Với sự đòi hỏi về thời gian và nguồn lực như vậy đòi hỏi tuyến y tế cơ sở phải là nơi thúc đẩy, để các bác sĩ phát triển nghề.
Tuy nhiên thực tế thời gian cho thấy y tế cơ sở chưa phải nơi thu hút nguồn nhân lực y tế, đây là một cái điểm nghẽn tôi nghĩ rằng không thể một sớm một chiều có thể tháo gỡ được”, đại biểu Trần Khánh Thu nhận định.
Những chính sách được ban hành gần đây đã cơ bản gia tăng thêm các sức hút cho hệ thống y tế tuyến cơ sở như điều chỉnh tăng hệ số lương cho cán bộ làm y tế cơ sở, chính sách phụ cấp để giữ chân cán bộ làm ở các lĩnh vực khó khăn như là hồi sức, truyền nhiễm, pháp y, giám định hay giải phẫu bệnh,… cũng đã được quan tâm hơn.
“Vấn đề hỗ trợ cho một số ngành học, chuyên ngành chuyên khoa mà lâu nay khó tuyển dụng, cũng đã có những chính sách đặc thù trong các Nghị quyết đột phá vừa qua. Ưu đãi khác cho cán bộ khi công tác tại các vùng sâu, vùng xa cũng đã được đề cập tới. Các địa phương cũng đã có những chính sách riêng để có thể thu hút nguồn nhân lực về với cơ sở. Đó là những dấu hiệu cho thấy chính sách đối với cán bộ y tế đã được cởi mở”, thành viên Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên nhấn mạnh.
Qua đó, đại biểu Trần Khánh Thu khẳng định với các quyết sách vừa được thông qua tại kỳ họp thứ Mười, Quốc hội khóa XV đã giải quyết cơ bản được các điểm nghẽn chính sách để thúc đẩy phát triển ngành y tế.

Đại biểu Quốc hội Trần Khánh Thu đề nghị xây dựng cơ chế khuyến khích người dân - doanh nghiệp - tổ chức xã hội để phát triển hệ thống y tế. Ảnh: Mạnh Hưng
Tuy nhiên theo đại biểu Trần Khánh Thu, từ chính sách đến quá trình thực hiện để người dân được thụ hưởng là một quá trình rất dài. Từ chính sách tại nghị trường Quốc hội, các chính sách của Đảng, Nhà nước, Văn kiện Đại hội,… đều coi y tế, giáo dục, đặc biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân dân là hết sức quan trọng.
“Đôi khi chúng ta vẫn bị chậm so với mục tiêu hoặc thậm chí có những vướng mắc khó tháo gỡ để triển khai, đấy là những cái tồn tại đã được chỉ ra. Chính sách của từng chương trình, quy định của bộ này ngành kia chưa đảm bảo tính thống nhất,.. thì đến giờ tôi nghĩ cơ bản đã được tháo gỡ”, đại biểu Trần Khánh Thu nhận định.
Chính quyền địa phương hai cấp đã giúp việc phân cấp, phân quyền đến các địa phương, đến các cơ sở được càng mạnh hơn. Tuy nhiên, vướng mắc giờ đây sẽ thuộc về vấn đề địa phương có dám làm hay không, các cơ sở y tế, các trường đại học có dám làm hay không. Đây mới chính là những điểm nghẽn mà sau này khi triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu về nâng cao sức khỏe nhân dân sẽ phải dần dần cải thiện.
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu rất rõ: "Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả xã hội" và đầu tư cho sức khỏe chính là đầu tư cho sự phát triển của đất nước.
Chiến lược quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 cũng đã xác định rất rõ mọi người dân đều được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng, được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng giống nòi của người Việt Nam.
“Để thực hiện được các mục tiêu này, thì tôi nghĩ rằng bên cạnh sự nỗ lực của ngành y tế, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, thì vai trò của người dân, của doanh nghiệp và của các tổ chức xã hội là cực kỳ quan trọng”, đại biểu Trần Khánh Thu nhấn mạnh.

Hình ảnh các đại biểu tham gia Talkshow “Chiến lược y tế: Hướng đến một hệ thống y tế công bằng, bền vững, hiện đại”. Ảnh: Mạnh Hưng
Thứ nhất, về phía người dân quan trọng nhất vẫn là ý thức, sự chủ động của mỗi người trong việc tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của chính mình. Chúng ta cần chuyển từ tư duy "chờ có bệnh mới đi chữa" sang tư duy "chủ động phòng bệnh", chủ động tầm soát để phát hiện bệnh sớm.
Cần có những cơ chế chính sách để khuyến khích người dân, ví dụ như đưa các gói khám sức khỏe định kỳ, tầm soát một số bệnh lý phổ biến, đặc biệt là các bệnh không lây nhiễm vào trong danh mục được bảo hiểm y tế chi trả ở những mức độ nhất định.
Khi người dân thấy rằng đi khám cũng được hỗ trợ, được bảo hiểm chi trả, thì chắc chắn sự hưởng ứng của người dân sẽ cao hơn rất nhiều. Cần tăng cường công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe một cách sâu rộng, đa dạng về hình thức để người dân hiểu rõ được lợi ích của việc phòng bệnh.
Thứ hai, về phía doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, cần có những chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Trong đó, cơ chế ưu đãi về thuế, về đất đai cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào các cơ sở chăm sóc sức khỏe, trung tâm tầm soát bệnh tật chất lượng cao cần phải được ưu tiên.
Đồng thời, cần đề cao vai trò giám sát của các tổ chức chính trị xã hội, của cộng đồng trong việc thực hiện các chính sách pháp luật về y tế tại địa phương. Khi có sự tham gia giám sát của người dân, xã hội, thì chắc chắn chiến lược, chính sách y tế của chúng ta sẽ được thực thi một cách hiệu quả và minh bạch hơn.













