Cự Ðà - làng cổ bên dòng Nhuệ giang

Buổi sáng, sương sớm từ dòng Nhuệ giang mỏng như tấm khăn nhẹ phủ ngang những mái ngói rêu bạc của làng Cự Đà. Con đường nhỏ dẫn vào làng lấp lóa màu gạch đỏ, tiếng bước chân vọng lên âm thanh mộc mạc của vùng quê ngoại thành Hà Nội còn giữ hơi thở xưa.

Phía sau những vòm cửa gỗ nâu vọng lên tiếng nói của các bà, các chị đang chuẩn bị mẻ miến mới... Cách không gian ồn ào phố thị chừng 20km, Cự Đà như lớp trầm tích nguyên sơ đang có nguy cơ mai một...

Một chiếc cổng cổ còn sót lại ở làng Cự Đà. Ảnh: Internet

Một chiếc cổng cổ còn sót lại ở làng Cự Đà. Ảnh: Internet

Vẻ đẹp bình yên giữa dòng chảy hiện đại

Làng Cự Đà nằm bên hữu ngạn sông Nhuệ, thuộc xã Bình Minh, Hà Nội (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai cũ). Làng hình thành từ thế kỷ XVII, xưa mang tên Ngô Khê, thuộc xã Hạ Thanh Oai, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Theo sử liệu, giai đoạn hưng thịnh nhất của Cự Đà diễn ra từ khoảng năm 1890 đến 1945, khi nơi đây trở thành trung tâm buôn bán và trao đổi hàng hóa của cả vùng. Với lịch sử hơn 400 năm, Cự Đà nổi tiếng bởi nghề làm tương, miến dong, đặc biệt là nét kiến trúc đặc sắc, hòa quyện giữa những ngôi nhà Việt cổ và các ngôi nhà mang phong cách Pháp, hình thành trong thời kỳ Pháp thuộc.

Làng có ba cổng cái (cổng chính). Toàn bộ không gian cư trú được quy hoạch theo dạng xương cá, từ trục đường chính tỏa ra hàng chục ngõ nhỏ dẫn vào mười hai xóm. Lối vào mỗi xóm đều có cổng vòm mái cong, hai bên đặt câu đối chữ Hán. Đặc sắc nhất ở Cự Đà là hệ thống nhà cổ với nhiều loại hình còn được bảo tồn đến nay, phổ biến như nhà ba gian hai dĩ hoặc năm gian hai dĩ.

Người già trong làng kể rằng, thuở xa xưa, các hoàng thân trong gia tộc chúa Trịnh từng chọn vùng đất này để lập ấp, dựng nhà. Đến thời Pháp thuộc, hình thành lớp kiến trúc mới với cửa cao, ban công sắt uốn và tường vữa sáng màu, đan cài giữa những nếp nhà ba gian, năm gian truyền thống. Bởi vậy, làng Cự Đà mang vẻ đẹp không giống bất kỳ làng cổ nào ở Bắc Bộ, vừa cổ kính, vừa sang trọng, lại phảng phất nét lãng mạn.

Đình Cự Đà hay còn gọi là đình Vật nằm ở giữa làng. Nơi đây thờ vị Thành hoàng làng là quan võ thời nhà Đinh. Đình còn giữ được vẻ uy nghi nhờ những cột lim dài, mái đình cong vút. Trước sân đình, đôi cóc đá đã tròn nhẵn theo năm tháng, lặng lẽ chứng kiến bao đổi thay. Ngoài đình, Cự Đà còn có miếu, chùa, cột đèn, cột cờ..., tất cả đều mang vẻ đẹp cổ kính. Những công trình này được xếp đặt hài hòa, như một lớp vỏ bao quanh linh hồn làng Việt. Khách đến lần đầu luôn có cảm giác như đang bước vào một bảo tàng sống - nơi quá khứ vẫn hiện diện mà không hề cần trưng bày...

Cự Đà còn nổi tiếng với hai nghề truyền thống còn duy trì đến hôm nay là làm tương và làm miến. Từ xa xưa tương Cự Đà đã nức tiếng qua câu ca: “Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Cách sông, cách nước thì thương/ Cách quê, cách quán nhớ tương Cự Đà”. Với nghề làm miến, chẳng ai còn nhớ nghề này có từ khi nào, chỉ biết rằng nó đã nuôi sống bao thế hệ người dân nơi đây. Những mẻ miến làm từ củ dong riềng khi phơi lên sẽ có màu vàng óng tự nhiên, dai, thơm, đặc biệt không nát khi nấu. Miến Cự Đà vì thế mà nổi tiếng khắp Hà Nội và lan rộng nhiều vùng miền khác. Dẫu vậy, nghề miến cũng đang chịu nhiều áp lực. Nhu cầu thị trường thay đổi; quy trình sản xuất phải bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; nhiều hộ phải thuê mặt bằng rộng để đáp ứng sản lượng mùa Tết... Mọi thứ đều khiến Cự Đà phải xo-ay mình - chính điều này có thể ảnh hưởng đến cảnh quan làng cổ...

Mong manh giữa vòng xoáy đô thị hóa

Giàu trầm tích văn hóa, nhưng vẻ đẹp của Cự Đà đang dần trở nên mong manh. Gần một thập kỷ qua, theo Viện Bảo tồn di tích, tốc độ biến dạng và mất mát của các làng cổ ở Hà Nội diễn ra “đặc biệt nhanh chóng”. Cự Đà cũng không nằm ngoài vòng xoáy ấy: Nhiều ngôi nhà cổ bị phá dỡ, nhiều di chỉ biến mất hoặc biến dạng chỉ sau vài năm...

Bước qua cổng làng hôm nay, sau những mái ngói rêu phong thấp thoáng bóng những ngôi nhà cao tầng mọc lên chen chúc trong các ngõ nhỏ vốn là lối đi đặc trưng của làng Việt cổ. Tường bê tông sơn sáng bóng áp sát tường gạch cũ lo-ang lổ... Sự đối lập ấy khiến không gian làng trở nên lạc điệu, mất dần vẻ trầm mặc vốn có. Nhiều ngôi nhà kiểu Pháp cổ với cửa vòm và lan can sắt tinh xảo bị che khuất, những nếp nhà gỗ lim bị phá bỏ vì “xuống cấp, bất tiện”... Mọi đổi thay diễn ra âm thầm nhưng theo chiều hướng không thể đảo ngược. Và điều khiến nhiều người day dứt là câu hỏi: Nếu không bảo tồn ngay, liệu còn một Cự Đà cổ cho mai sau?

Những năm gần đây, cái tên Cự Đà được nhắc đến nhiều hơn khi Thành phố Hà Nội ban hành danh mục các khu vực, di sản, công trình cần tập trung nguồn lực để bảo vệ. Dù được đánh giá có truyền thống lâu đời, Cự Đà vẫn đang trong quá trình hoàn thành hồ sơ đề xuất để được công nhận. Tháng 4-2025 vừa qua, Ban Đô thị HĐND thành phố khuyến nghị, cần làm rõ thêm cơ sở khoa học, pháp lý để đưa Cự Đà vào danh mục làng cổ, đồng thời tính toán đầy đủ nguồn lực để bảo tồn.

Câu chuyện bảo tồn ở làng cổ Cự Đà không chỉ nằm ở hồ sơ xếp hạng. Quan trọng hơn là sự chuẩn bị về ngân sách, cơ chế khuyến khích xã hội hóa, hợp tác quốc tế và lộ trình bảo tồn rõ ràng. Nếu thiếu những điều này, việc công nhận làng cổ sẽ không đủ để cứu một di sản đang đối diện áp lực đô thị hóa từng ngày. Theo kiến trúc sư Lê Thành Vinh, nguyên Viện trưởng Viện Bảo tồn di tích, giá trị cốt lõi của làng xã có lúc bị mờ đi nhưng nếu được bảo tồn, phát huy, nó sẽ lại rõ nét...

Đồng quan điểm, các chuyên gia cho rằng, làng cổ không thể bảo tồn theo kiểu bảo tàng hóa. Làng là cơ thể sống, có đời sống, có cư dân, có biến động. Nếu quản lý lỏng lẻo, phát triển tự phát sẽ phá vỡ cấu trúc truyền thống; song nếu bó cứng người dân vào các quy định quá khắt khe, làng có thể trở thành “di tích chết”. TS.KTS Ngô Doãn Đức đề xuất, cần kiểm kê toàn bộ nhà cổ, điều tra dân số, cấp đất giãn dân khu vực gần làng cổ để di dời bớt hộ dân có nhu cầu mở rộng không gian. Chỉ khi người dân được bảo đảm quyền lợi, họ mới đồng thuận gìn giữ nhà cổ.

Theo Bí thư Đảng ủy xã Bình Minh Nguyễn Khánh Bình, gần đây, Cự Đà được nhiều du khách tìm đến vào dịp cuối tuần. Họ đi dọc bờ sông, chụp ảnh những mái đình, những căn nhà cổ, đường ngõ rêu phong... Điều đó cho thấy Cự Đà có tiềm năng trở thành điểm du lịch văn hóa - lịch sử hấp dẫn. Tuy nhiên, du lịch ở đây vẫn hoàn toàn tự phát, chưa có tour/tuyến và sản phẩm du lịch, chưa có trung tâm thông tin; sự phối hợp giữa chính quyền - doanh nghiệp - người dân còn hạn chế... Chính quyền xã đang nỗ lực thúc đẩy quảng bá hình ảnh làng cổ, đồng thời thu hút đầu tư du lịch để tạo sinh kế cho người dân. “Cự Đà còn giữ được nhiều giá trị quý, nhưng nếu cứ để dân tự lo thì khó giữ được nếp nhà cổ, ngõ cổ. Chúng tôi mong muốn đẩy mạnh quảng bá, thu hút các doanh nghiệp du lịch đầu tư hạ tầng. Khi người dân có nguồn thu từ du lịch, việc gìn giữ nhà cổ mới bền lâu” - ông Nguyễn Khánh Bình nhấn mạnh.

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, du lịch cũng gợi ý về những mô hình có thể áp dụng cho Cự Đà, như xây dựng tour ảnh cổ, tour trải nghiệm nghề miến, tour “Đêm trăng ven sông Nhuệ”... Những mô hình này vừa giúp tăng thu nhập cho dân, vừa tạo động lực để họ giữ lại nhà cổ...

Rời Cự Đà khi ánh nắng cuối ngày phủ lên dòng Nhuệ giang màu mật ong, những mái nhà cổ soi bóng nước, sóng gợn nhẹ như đang trò chuyện với thời gian. Nghe mùi miến thoảng trong gió, tiếng trẻ con nô đùa nơi sân đình... Cự Đà thật đẹp, yên bình song cũng trầm mặc, man mác. Hy vọng rằng, tới đây, với chiến lược gìn giữ, bảo tồn bài bản của chính quyền, người dân và các cơ quan chức năng, Cự Đà sẽ mãi là một trong những phần hồn cổ kính của Thủ đô ngàn năm văn hiến.

Ðỗ Minh

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/cu-a-lang-co-ben-dong-nhue-giang-726972.html