Cơ hội Việt Nam tận dụng thành quả cách mạng công nghệ, phát triển nhảy vọt

Thời gian tới, ngành ICT duy trì vai trò động lực tăng trưởng chính, đóng góp GDP dự báo đến 20-25% vào năm 2030, tạo việc làm cho khoảng 2,5-3 triệu lao động.

Phải khẳng định rằng, các dự thảo báo cáo, văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đã được chuẩn bị công phu, có bố cục chặt chẽ, trình bày ngắn gọn, rõ ràng và rất khoa học các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua và các định hướng phát triển đất nước cho giai đoạn tới.

 TS Trần Đức Lai – Chủ tịch Hội Vô tuyến-Điện tử Việt Nam

TS Trần Đức Lai – Chủ tịch Hội Vô tuyến-Điện tử Việt Nam

Khoa học công nghệ là động lực trực tiếp của phát triển kinh tế

Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam đã thể hiện tầm nhìn toàn diện về quá trình đổi mới 40 năm qua của đất nước. Cấu trúc dự thảo thể hiện sự khoa học, bài bản, logic khá rõ ràng, tuân thủ trình tự từ bối cảnh lịch sử, nhận thức lý luận, thực tiễn, đến tổng kết bài học và định hướng tương lai.

Điểm mạnh nổi bật của cấu trúc này nằm ở sự cân đối giữa năm trụ cột chính: kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, và xây dựng Nhà nước. Mỗi trụ cột được xuyên suốt từ nhận thức lý luận đến thực tiễn, tạo tính nhất quán trong phân tích. Phần nguyên nhân của thành tựu và hạn chế được tách riêng cho thấy tư duy phân tích sâu, không chỉ dừng lại ở liệt kê hiện tượng.

Tuy nhiên, các phần liên quan đến lĩnh vực về khoa học công nghệ, đặc biệt là Công nghệ thông tin và Truyền thông, nội dung còn chung chung, thiếu tính cụ thể về một trong lĩnh vực then chốt đã, đang và sẽ góp phần quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, mục bàn về khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo lại đặt trong cụm văn hóa-xã hội, trong khi khoa học công nghệ là động lực trực tiếp của phát triển kinh tế. Điều này tạo cảm giác rời rạc, khó nắm bắt được mối quan hệ nhân quả giữa đầu vào công nghệ và đầu ra kinh tế.

Tương tự, chuyển đổi số được nhắc đến trong nhiều phần khác nhau, nhưng không có một phần nào tổng hợp để thấy được bức tranh toàn cảnh. Lĩnh vực Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT-Information and Communication Technology) đã chuyển mình từ công cụ hỗ trợ trở thành nền tảng xuyên suốt của nền kinh tế số. ICT đang giữ vai trò trụ cột trong chuyển đổi số quốc gia nhưng trong dự thảo chưa làm rõ tầm quan trọng của lĩnh vực này, cần xem xét bổ sung.

Đầu tư cho cho khoa học công nghệ còn thấp

Về góp ý cụ thể, tại mục thành tựu phát triển kinh tế, dự thảo đề cập chung chung về “khoa học công nghệ”, về "chuyển đổi số", "công nghệ thông tin" nhưng không làm rõ thành tựu cụ thể của ngành ICT qua 40 năm; thiếu số liệu định lượng về đóng góp của ngành ICT vào GDP, việc làm, xuất khẩu, dịch vụ và không nêu bật vai trò của hạ tầng viễn thông (nay là Hạ tầng số) trong việc thu hẹp khoảng cách số và thúc đẩy phát triển nông thôn, các vùng sâu, vùng xa.

Ngay từ thời gian bắt đầu đổi mới, Đảng ta đã xác định khoa học công nghệ là then chốt, đã có nhiều quyết sách cho KHCN để có đóng góp trực tiếp cho phát triển kinh tế, có thể thể thấy rõ các đóng góp qua 40 năm.

Cụ thể, KHCN là vai trò nền tảng và động lực của tăng trưởng kinh tế gồm: Tạo năng suất lao động tăng mạnh; nhiều ngành kinh tế mới được hình thành nhờ công nghệ cao như viễn thông, CNTT, công nghiệp phần mềm, năng lượng nguyên tử, thương mại điện tử, công nghiệp tài chính, năng lượng tái tạo...

KHCN thúc đấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế như: hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển các lĩnh vực công nghiệp, mở rộng các khu vực dịch vụ (đặc biệt là dịch vụ số). Góp phần mở cửa thị trường, thúc đẩy cạnh tranh: KHCN đã tạo nền tảng cho hội nhập và mở cửa kinh tế; thu hút đầu tư nước ngoài; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước, của quốc gia và cạnh tranh quốc tế.

Các ý lớn trên thực tế có rất nhiều số liệu dẫn chứng. Cụ thể, ngành Thông tin và Truyền thông đạt doanh thu toàn ngành hàng năm tăng trung bình 15% ( ví dụ năm 2024 đạt 4.243.984 tỷ đồng, tăng 13,2% so với năm trước) và đóng góp vào GDP khoảng 10% ( ví dụ năm 2024 đạt 989.016 tỷ đồng, tăng trưởng 11,2%). Kinh tế số chiếm tỷ trọng 18,3% GDP, mức tăng trưởng ấn tượng 20% cho thấy chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ và hiệu quả..

Hạ tầng viễn thông phát triển vượt bậc với 85% hộ gia đình sử dụng cáp quang. Số thuê bao băng rộng di động đạt 94 thuê bao trên 100 dân. Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia xử lý 1,031 tỷ giao dịch ( tăng 56% so với năm 2023), phản ánh sự bùng nổ của chính phủ số.

Công nghiệp công nghệ số ghi nhận doanh thu ngày càng tăng ( năm 2024 đạt151,86 tỷ USD, tăng 11,2%. Kim ngạch xuất khẩu phần cứng, điện tử đạt 132,341 tỷ USD, tăng 11,6%...). Tỷ lệ giá trị nội địa trong lĩnh vực ICT cải thiện đạt 31,8%, cho thấy năng lực làm chủ công nghệ đang được nâng lên.

Cùng với đó, An toàn thông tin mạng đang trở thành điểm sáng (với doanh thu tăng 30% lên 7.179 tỷ đồng. Ngành đã bảo vệ 1,3 triệu người dân khỏi website lừa đảo, xử lý 8.558 website vi phạm pháp luật. Tỷ lệ tin xấu, độc trên mạng xã hội bị ngăn chặn kịp thời đạt 92,7%...).

Tuy nhiên, hiện nay, đầu tư cho cho KHCN còn thấp (khoảng 0.5-0.7% GDP, so với các nước trung bình 2-3%). Sự liên kết giữa nghiên cứu và sản xuất còn yếu, hiệu quả thương mại các kết quả nghiên cứu còn rất hạn chế.

Bên cạnh đó phát triển công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) còn một số bất cập. Cụ thể, ngành ICT tuy có quy mô khá rộng, công nghệ cao, phát triển nhanh nhưng chưa thực sự mạnh về công nghệ lõi, do còn phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu và chưa tạo ra nhiều sản phẩm đột phá có tính cạnh tranh toàn cầu. Thứ hai, thiếu hụt nhân lực chất lượng cao là điểm nghẽn lớn, đặc biệt trong các lĩnh vực chuyên sâu như trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, khoa học dữ liệu; tình trạng này khiến nhiều doanh nghiệp công nghệ phát triển chậm và khó thu hút đầu tư nước ngoài.

Các doanh nghiệp ICT còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn và thị trường, trong khi sự cạnh tranh từ các tập đoàn công nghệ lớn toàn cầu rất khốc liệt. Các vấn đề về bảo mật thông tin, quản trị kỹ thuật số cũng đang là thách thức lớn, cùng với sự chưa đồng bộ của hạ tầng công nghệ số ở các vùng nông thôn và miền núi.

Để phát triển bền vững, Việt Nam cần tăng cường hợp tác giữa doanh nghiệp, trường đại học, các viện nghiên cứu, các hiệp hội, đẩy mạnh đào tạo nhân lực chất lượng cao, nâng cao đầu tư cho R&D và hoàn thiện khung pháp lý cho chuyển đổi số.

Cơ hội đột phá từ cách mạng công nghệ ICT

Thời gian tới, ngành ICT sẽ duy trì vai trò động lực tăng trưởng chính, với đóng góp vào GDP dự báo lên đến 20-25% vào năm 2030, tạo việc làm cho khoảng 2,5-3 triệu lao động; thị trường kinh tế số Việt Nam có thể đạt quy mô từ 50-70 tỷ USD, tăng gấp 3-4 lần so với năm 2024.

Hạ tầng số thế hệ mới được quy hoạch triển khai toàn diện, bao gồm phủ sóng mạng 5G tới 100% dân số vào năm 2030, bắt đầu thử nghiệm 6G năm 2030, và phát triển trung tâm dữ liệu chuẩn Tier 3, Tier 4 với công suất 200-300 MW phục vụ chuyển đổi số toàn diện.

Các nền tảng công nghệ trọng điểm như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo quốc gia sẽ được xây dựng giúp giảm 40-50% chi phí chuyển đổi số, đồng thời thúc đẩy ứng dụng IoT, AI trong nông nghiệp thông minh tăng năng suất 30-40%, y tế số phủ rộng khắp, giáo dục số cá nhân hóa, và 100% dịch vụ công trực tuyến với xử lý hồ sơ tự động nhờ AI.

 Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Chuyển đổi số sẽ thâm nhập sâu vào mọi lĩnh vực. Nông nghiệp thông minh ứng dụng IoT, AI giúp năng suất tăng 30-40%. Y tế số với hồ sơ sức khỏe điện tử toàn dân, khám chữa bệnh từ xa phủ khắp vùng sâu vùng xa. Giáo dục số với nền tảng học tập trực tuyến, trí tuệ nhân tạo cá nhân hóa giảng dạy cho từng học sinh. Chính phủ số hoàn thiện với 100% dịch vụ công trực tuyến, xử lý hồ sơ đạt hiệu quả cao nhờ tích hợp AI.

Tuy nhiên, Việt Nam đối mặt với thách thức lớn về năng lực làm chủ công nghệ lõi. Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao có thể lên đến 500.000-700.000 người vào năm 2030. An ninh mạng, bảo mật dữ liệu ngày càng phức tạp khi tấn công mạng gia tăng cả về số lượng và mức độ tinh vi. Khoảng cách số có nguy cơ mở rộng nếu không có chính sách can thiệp mạnh.

Việt Nam có cơ hội lớn tận dụng thành quả các cuộc cách mạng công nghệ để phát triển nhảy vọt. Vị thế địa lý thuận lợi nằm trên tuyến cáp quang biển quốc tế kết nối châu Á với thế giới, giúp chi phí băng thông quốc tế giảm mạnh. Dân số trẻ, am hiểu công nghệ với tỷ lệ dân số Việt Nam sử dụng smartphone năm 2025 đạt khoảng 72-78%, tương đương hơn 79,8 triệu người dùng smartphone tính đến đầu năm 2025, là thị trường hấp dẫn cho các dịch vụ số.

Các tập đoàn công nghệ toàn cầu đang tìm kiếm địa điểm đầu tư sản xuất và nghiên cứu phát triển thay thế Trung Quốc. Việt Nam với chi phí nhân công cạnh tranh, hạ tầng viễn thông hiện đại, chính sách ưu đãi hấp dẫn là điểm đến tiềm năng. Cơ hội trở thành trung tâm sản xuất chip bán dẫn, thiết bị điện tử thông minh cho khu vực là hoàn toàn khả thi.

Công nghệ blockchain, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển các ngành dịch vụ công nghệ cao như phần mềm doanh nghiệp, trò chơi điện tử, nội dung số sáng tạo. Thị trường toàn cầu về dịch vụ gia công phần mềm dự kiến đạt 1.200 tỷ USD năm 2030, Việt Nam có thể chiếm 3-5% thị phần với doanh thu xuất khẩu 36-60 tỷ USD.

Chuyển đổi số mở ra cơ hội cải cách hành chính hiệu quả, tăng năng suất lao động toàn nền kinh tế 20-30%. Ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp giúp nâng giá trị sản phẩm, kết nối nông dân với thị trường toàn cầu. Giáo dục và y tế số giảm chi phí, tăng khả năng tiếp cận cho người dân vùng sâu vùng xa.

Năng lực nghiên cứu phát triển công nghệ lõi còn yếu là rào cản lớn nhất. Chi phí cho nghiên cứu phát triển của Việt Nam chỉ đạt 0,5% GDP năm 2024, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (4,8%), Singapore (2,2%), Trung Quốc (2,4%). Thiếu vắng các trung tâm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm hiện đại, chính sách hỗ trợ chưa đủ sức hấp dẫn các nhà khoa học tài năng.

Thiếu hụt nhân lực ICT trình độ cao là thách thức rất lớn. Mỗi năm, hệ thống đào tạo chỉ cung cấp 50.000-60.000 kỹ sư công nghệ thông tin trong khi nhu cầu lên đến 100.000-120.000 người. Các vị trí chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, an ninh mạng đang thiếu hụt trầm trọng ở Việt Nam với chênh lệch cung cầu lên đến 80%. Các báo cáo chuyên ngành cho thấy Việt Nam thiếu khoảng 150.000 đến 200.000 nhân lực công nghệ thông tin hàng năm, trong đó rất thiếu kỹ sư chuyên sâu về AI, khoa học dữ liệu và an ninh mạng. Chất lượng đào tạo còn thấp, với hơn 60-70% sinh viên CNTT sau khi ra trường cần đào tạo lại, kỹ năng thực hành yếu, kiến thức nhanh lỗi thời so với yêu cầu thực tế của doanh nghiệp. Nhu cầu nhân lực trong các lĩnh vực này rất lớn, trong khi nguồn cung không đáp ứng kịp, tạo nên điểm nghẽn nghiêm trọng cho sự phát triển của ngành ICT Việt Nam.

An ninh mạng là thách thức sống còn. Số lượng tấn công mạng vào Việt Nam tăng trung bình 35% mỗi năm, thiệt hại kinh tế ước tính 1-2 tỷ USD hàng năm. Năng lực phòng thủ mạng, ứng cứu sự cố còn hạn chế. Hệ thống pháp luật về an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân chưa đồng bộ, chưa tạo khung pháp lý vững chắc.

Phụ thuộc công nghệ nước ngoài là lỗ hổng chiến lược. Việt Nam nhập khẩu 95% thiết bị viễn thông, 100% chip bán dẫn công nghệ cao, 80% phần mềm hệ thống. Tình trạng này tạo rủi ro lớn về an ninh quốc gia, dễ bị gián đoạn chuỗi cung ứng khi có xung đột địa chính trị.

Khoảng cách số có nguy cơ trở thành khoảng cách phát triển mới. Người dân nông thôn, miền núi, người cao tuổi gặp khó khăn tiếp cận công nghệ. Tỷ lệ dân số có kỹ năng số cơ bản chỉ đạt 40%, kỹ năng số nâng cao dưới 10%. Nếu không giải quyết triệt để, khoảng cách này sẽ làm giãn cách chênh lệch giàu nghèo, cản trở mục tiêu phát triển toàn diện."

Từ góc độ chuyên môn, chúng tôi đề nghị Ban soạn thảo bổ sung các đánh giá về đóng góp của KHCN vào thành tựu phát triển kinh tế, cụ thể: “Trong 40 năm qua, KHCN không chỉ giúp Việt Nam tăng trưởng kinh tế mà còn thúc đẩy tự do hóa và mở cửa thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và tạo môi trường kinh doanh minh bạch hiện đại. Nhờ đó Việt Nam từng bước chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu, rộng với thế giới và đang tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao váo năm 2025”.

Nên có một mục riêng về "Công nghệ thông tin và Truyền thông" trong phần thành tựu kinh tế, tương đương với các mục về công nghiệp, nông nghiệp, vì ICT là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất và đóng vai trò then chốt trong chuyển đổi số phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế,.

Thứ hai, làm rõ số liệu cụ thể, định lượng về đóng góp của ICT. Dự thảo hiện nay quá chung chung với các cụm từ "phát triển tích cực", "có bước tiến", cần thay bằng con số thực tế về GDP, việc làm, xuất khẩu, đầu tư.

Thứ ba, phân tích sâu hơn về hạn chế, yếu kém của ngành ICT. Không nên né tránh những vấn đề như phụ thuộc công nghệ, thiếu nhân lực chất lượng cao, an ninh mạng yếu kém. Chỉ khi nhìn thẳng vào hạn chế mới đưa ra được giải pháp phù hợp.

Thứ tư, trong phần dự báo, cần đánh giá đúng tầm quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với Việt Nam. Đây không phải xu hướng phụ mà là nhân tố quyết định sự thành bại của mục tiêu phát triển đến năm 2045. Các nước đi sau như Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng thành tựu công nghệ mới, hiện đại để phát triển nhảy vọt, vượt qua giai đoạn công nghiệp hóa truyền thống.

Thứ năm, đề xuất bổ sung phần giải pháp cụ thể cho phát triển ICT trong mục 5.3.3, bao gồm: đầu tư mạnh, có trọng điểm vào nghiên cứu phát triển công nghệ lõi; đổi mới mạnh mẽ giáo dục đào tạo ICT; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; hoàn thiện khung pháp lý về an ninh mạng, dữ liệu; thu hút nhân tài công nghệ toàn cầu.

TS. Trần Đức Lai – Chủ tịch Hội Vô tuyến-Điện tử Việt Nam

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/co-hoi-viet-nam-tan-dung-thanh-qua-cach-mang-cong-nghe-phat-trien-nhay-vot-post1583852.html