Chuyện những nghệ nhân lan tỏa di sản văn hóa đến cộng đồng

Bằng tình yêu, niềm say mê với di sản văn hóa của địa phương, những nghệ nhân - người đang nắm giữ hồn cốt của di sản vẫn hàng ngày miệt mài, nỗ lực 'giữ lửa' và 'truyền lửa' tình yêu văn hóa cho cộng đồng. Để từ đó, di sản không chỉ được gìn giữ và phát huy mà còn khẳng định được sức sống trong xã hội hiện đại.

Nghệ nhân Nhân dân Phạm Thị Tắng cùng các nghệ nhân thực hành Lễ hội Pồn Pôông.

Nghệ nhân Nhân dân Phạm Thị Tắng cùng các nghệ nhân thực hành Lễ hội Pồn Pôông.

Sau nhiều năm, chúng tôi mới có dịp về lại làng Lỏ, xã Minh Sơn để gặp Nghệ nhân Nhân dân Phạm Thị Tắng, người đã dành trọn cuộc đời sưu tầm, giữ gìn và truyền dạy cho các thế hệ đi sau ở địa phương những giá trị văn hóa của dân tộc Mường, và cũng là người có công rất lớn trong việc phục dựng, bảo tồn và phát huy Lễ hội Pồn Pôông. Năm nay, dù tuổi đã cao, thế nhưng bà Tắng vẫn nhớ như in từng điệu múa, lời hát Xường của người Mường và kể cho chúng tôi nghe rõ ràng từng chi tiết từ khi bà mới bắt đầu bén duyên với Xường.

Đó là từ khi còn nhỏ bà đã thường xuyên được nghe các bà, các mẹ ngân nga những điệu hát Xường mượt mà, đằm thắm. Cứ thế, các bài hát Xường đã ngấm vào máu, vào tâm hồn của bà từ lúc nào chẳng hay, và dần dà khi lớn lên bà cũng tích cực tìm hiểu, nhờ các bà, các mẹ đi trước truyền dạy thêm hát Xường để hiểu hơn và thuần thục hơn.

“Hát Xường không khó, vì giai điệu đơn giản và lời ca dễ nhớ, nhưng để hát hay, thì đòi hỏi người hát phải có niềm say mê và tuân thủ cấu tứ, cung bậc chặt chẽ. Nét độc đáo trong điệu Xường là lời ca được ứng khẩu ngay tại chỗ, không theo một khuôn mẫu có sẵn mà sáng tạo một cách linh hoạt, hài hòa. Nội dung lời hát rất phong phú, như ca ngợi tinh thần đoàn kết, tình yêu đôi lứa, tương thân, tương ái, ca ngợi cảnh đẹp quê hương, làng bản, quê hương, đất nước đổi mới...

Trong những năm qua, tôi thường xuyên truyền dạy hát Xường cho người dân, học sinh trong các nhà trường tại địa phương. Đồng thời, cũng mang tiếng hát Xường đi biểu diễn ở khắp mọi nơi. Từ đó, nhằm lan tỏa hát Xường đến đông đảo người dân, du khách muôn phương", bà Tắng vui vẻ cho biết.

Khi nói về việc tham gia phục dựng cũng như đưa Lễ hội Pồn Pôông của người Mường đến hành trình được vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, ánh mắt bà Tắng lộ rõ niềm tự hào. Bà nói: “Pồn Pôông là lễ hội có từ xa xưa gắn liền với quá trình hình thành, sinh sống của người Mường. “Pồn” có nghĩa là chơi, nhảy múa; còn “Pôông” có nghĩa là bông, bông hoa. “Pồn Pôông” có nghĩa là nhảy múa bên cây bông (hay còn gọi là cây hoa). Xưa kia, Lễ hội Pồn Pôông được người Mường tổ chức vào ngày rằm tháng Giêng, rằm tháng Ba và rằm tháng Bảy với mong muốn cho mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, nhà nhà hạnh phúc. Trải qua biết bao thời gian cùng với sự biến thiên của lịch sử cũng có lúc lễ hội rơi vào nguy cơ bị quên lãng, không được tổ chức. Và mãi đến những năm cuối thập niên 80 thế kỷ XX khi tỉnh Thanh Hóa bắt tay vào việc bảo tồn các trò chơi, trò diễn dân gian theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) thì Lễ hội Pồn Pôông gần như mới được hồi sinh và được người dân tổ chức hàng năm. Về sau, với quyết tâm đưa lễ hội ngày càng lan tỏa trong đời sống, tôi cùng một số người am hiểu, tâm huyết với lễ hội đã cùng nhau tập hợp lại để nghiên cứu, tổ chức thực hành lại 48 trò chơi, trò diễn đặc sắc trong lễ hội mô phỏng cuộc sống sinh hoạt của người Mường, như chia đất, chia nước, phát mương... Đồng thời, tích cực mang lễ hội đi biểu diễn ở nhiều nơi, nhờ vậy mà đến năm 2016, Lễ hội Pồn Pôông đã chính thức được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây chính là niềm tự hào, và cũng đặt ra cho chúng tôi trách nhiệm trong việc giữ gìn, phát huy giá trị của lễ hội".

Ở xã Thiệu Trung - mảnh đất nổi tiếng với làng nghề đúc đồng Chè Đông có Nghệ nhân Ưu tú Lê Văn Bảy vẫn đang hàng ngày miệt mài, nỗ lực để duy trì và nối tiếp nghề truyền thống của cha ông. Khi chúng tôi tìm đến xưởng đúc đồng cũng đúng lúc ông Bảy cùng những người thợ đang tỉ mỉ, chau chuốt để chạm khắc nên những hoa văn trang trí cho sản phẩm. Vừa thoăn thoắt đôi tay làm việc, ông Bảy vừa kể cho chúng tôi nghe hành trình “tiếp nối” nghề truyền thống của cha ông. Ấy là, từ khi còn nhỏ, ông đã được tận mắt nhìn cha mẹ cũng như người dân trong làng làm nghề từ những công đoạn cụ thể như tạo mẫu, làm khuôn, nấu và rót đồng, làm nguội, chạm khắc... Từ đó, niềm say mê được theo nghề đúc đồng cũng nung nấu dần trong ông. Dần dà, khi lớn lên ông cũng tập tành làm nghề và cũng bắt đầu đúc những sản phẩm đầu tiên bằng đôi tay và sức lao động của mình.

Theo ông Bảy, nghề đúc đồng cũng không hề khó, mà chỉ cần tỉ mỉ, kiên trì và khéo tay là có thể theo nghề. Đa số người thợ ở đây đều đúc đồng theo phương pháp thủ công, nên để làm ra được sản phẩm thì cũng mất khá nhiều thời gian và công sức. Chẳng hạn, để đúc được sản phẩm theo kiểu dáng mà khách hàng đã đặt, cần phải trải qua một quy trình kỹ thuật phức tạp bao gồm cách làm khuôn, pha chế hợp chất, nấu đồng, đúc sản phẩm. Ở giai đoạn nào người thợ cũng phải chú tâm, cẩn thận trau chuốt từng chi tiết. Sau khi sản phẩm đã hình thành, xong công đoạn “làm thô”, người thợ phải thao tác “làm tinh”, đánh bóng, chỉnh sửa để sản phẩm thực sự có chất lượng cao và tinh xảo. Hơn nữa, hiện nay trong xã hội hiện đại, để đáp ứng được nhu cầu thị trường, người thợ đúc đồng cũng cần phải linh hoạt để sáng tạo ra mẫu mã, kiểu dáng phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng.

Suốt mấy chục năm theo đuổi niềm đam mê đúc đồng, nghệ nhân Bảy không chỉ giữ gìn ngọn lửa nghề và bảo tồn các giá trị văn hóa từ nghề đúc đồng của cha ông, mà xưởng đúc đồng của gia đình ông cũng thường xuyên thu hút được những người thợ trẻ đến học nghề, nối tiếp nghề.

Đi khắp mảnh đất xứ Thanh, không chỉ có Nghệ nhân Nhân dân Phạm Thị Tắng hay Nghệ nhân Ưu tú Lê Văn Bảy mà còn nhiều nghệ nhân khác ở các lĩnh vực khác nhau như: nghệ thuật trình diễn dân gian, tiếng nói chữ viết, tập quán xã hội và tín ngưỡng, các làng nghề truyền thống... Dù ở lĩnh vực nào hay thuộc dân tộc nào thì điểm chung ở các nghệ nhân là đều có niềm say mê bất tận với văn hóa truyền thống. Cũng bởi sự đam mê ấy mà các nghệ nhân đã dành trọn cuộc đời của mình cho việc sưu tầm, phục dựng lại di sản văn hóa và đưa di sản phát huy mạnh mẽ giá trị trong cộng đồng; tích cực truyền dạy lại các di sản văn hóa cho thế hệ trẻ. Đồng thời, phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc biến di sản thành tài sản và tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo thúc đẩy du lịch của địa phương ngày càng phát triển.

Bài và ảnh: Nguyễn Đạt

Nguồn Thanh Hóa: https://vhds.baothanhhoa.vn/chuyen-nhung-nghe-nhan-lan-toa-di-san-van-hoa-den-cong-dong-39041.htm