Chính sách về biển của Vua Minh Mệnh

Từ thời Chúa Nguyễn cho đến đỉnh cao là thời Vua Minh Mệnh, hải quân của nhà Nguyễn đã phát triển vượt bậc, có những thành tựu đáng ghi nhận.

Tăng cường phòng vệ trên biển

21 năm trị vì của Vua Minh Mệnh là đỉnh cao của nền hàng hải thuyền buồm và công cuộc xây dựng hải quân thời cổ đại Việt Nam. Ông đã ra sức đẩy mạnh sự nghiệp hàng hải, khuyến khích đóng các loại tàu thuyền bền chắc, xây dựng thủy quân vững mạnh, hết sức quan tâm đến an ninh cõi biển và phòng thủ biển.

Ông ban bố các quy chế như “tuần dương chương trình”, “tuần thuyền quy thức” và “tuần dương xử phận lệ”... nhằm mục đích chống cướp biển, trạm dương, và giữ gìn an ninh cho các loại tàu thuyền hoạt động ven biển. Sau Vua Gia Long, Vua Minh Mệnh tiếp tục đề xuất và ủng hộ sự nghiệp hàng hải ở hải ngoại, hầu như năm nào ông cũng cử đội thuyền triều đình đến các nước Đông Nam Á.

Ông từng cử người đến miền đông Ấn Độ vùng “tiểu Tây Dương”, hình thành việc công cán hải ngoại quy mô lớn liên tục. Theo ghi chép của “Đại Nam thực lục”, từ năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đến năm thứ 21 (1840) Vua Minh Mệnh ít nhất đã cử 30 đợt các quan viên văn, võ, đi tổng cộng khoảng 60 con tàu/lượt bọc đồng lớn nhỏ như các tàu “Phấn Bằng”, “Thụy Long”, “Định Dương”, “Bình Ba”... đến vùng Hạ Châu (thuộc Đông Nam Á) và tiểu Tây Dương.

Nhà vua cảm thấy rất tự tin và hầu hết mọi năm hải quân nhà Nguyễn ra nước ngoài để tập luyện và làm quen với con đường hàng hải.

Vua Minh Mệnh có tư tưởng quân sự “lấy thủy quân làm trọng” và lòng tự hào về thủy quân. Ông hài lòng về việc Chúa Nguyễn và sau này triều Nguyễn phát triển hải quân và rất hiệu quả trong chiến đấu. Năm Gia Long thứ 8 (1890), nước Xiêm giao chiến với Miến Điện, khi nước Xiêm xin nhà Nguyễn xuất quân thủy bộ để viện trợ, Vua Gia Long từng lấy làm hãnh diện mà nói rằng: “Thủy quân ta thì luôn luyện tập, nếu được sử dụng trong biển thì rất tiện”.

Trong “Minh Mệnh chính yếu”, Nhà vua cho rằng: “Binh có thể không sử dụng trong trăm năm, nhưng không thể không chuẩn bị trong một ngày”. Theo “Đại Nam thực lục”, Nhà vua nhấn mạnh rằng: “Dựng nước trong vùng khí hậu nóng, phần lớn đất đai ven biển, thủy quân là quan trọng nhất, nên luyện tập để thuộc việc hàng hải, khi có việc mới tiện sử dụng”.

GS.Vũ Hướng Đông - Giám đốc Sở nghiên cứu Việt Nam, Trường Đại học Trịnh Châu (Trung Quốc) cho biết: “Ý thức coi trọng hải quân được Vua Minh Mệnh thể hiện trong hình vẽ chiếc vạc Cửu Đỉnh được đúc năm 1836 tại cung đình Huế. Trong hình vẽ phản ánh về lực lượng quân sự trên vạc Cửu Đỉnh chủ yếu là hỏa khí và tàu thuyền trên biển. Để đối phó với bọn cướp biển, Nhà vua còn đích thân chỉ đạo xây dựng kế hoạch đóng loại tàu tuần dương cỡ như tàu đạn bọc đồng lớn và tàu Ô Lê nhỏ và nhanh nhẹn có khả năng tấn công. Điều đáng chú ý là Vua Minh Mệnh cũng đã ý thức được những bất cập của hải quân triều Nguyễn và chiến pháp của nó, yêu cầu các đại thần học tập chiến thuật đánh thủy của hải quân Anh, Mỹ”.

Vua Minh Mệnh còn yêu cầu Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế đi tham quan độ hình thủy chiến của các nước phương Tây và “tham khảo lẫn nhau để lấy làm biện pháp tập luyện của hải quân”, theo “Đại Nam thực lục”.

Nhà vua từng tỏ ý rằng việc ông cử hải quân ra Hạ Châu, Tiểu Tây Dương không nhằm mục đích thương mại, mà để hiểu tình hình nước ngoài. Vua Minh Mệnh không ngừng tìm hiểu tình hình Trung Quốc bằng cách triều cống định kỳ và thỉnh thoảng cử tàu thuyền qua Quảng Châu và Hạ Môn Trung Hoa. Ông đã ý thức được mối đe dọa của phương Tây khi nhiều nước châu Á trở thành thuộc địa của thực dân. Trong “Minh Mệnh chính yếu”, Nhà vua chỉ đạo rằng: “Nếu có người phương Tây sang mậu dịch thì chỉ cho phép họ mậu dịch ở những nơi quy định như cảng Đà Nẵng và Sơn Trà, xong thì bảo họ đi, không cho phép họ cư trú trên bờ, cũng không cho phép nhân dân làm buôn với họ để tránh việc bé xé ra to”.

Công nghệ đóng tàu tiếp cận Tây phương

Trong vòng 220 năm, các chúa Nguyễn đã mở mang khai phá đất Đàng Trong và biến nơi này thành một vương quốc trù phú và hùng mạnh. Một trong những đóng góp làm nên sự hùng mạnh của Đàng Trong chính là việc các chúa Nguyễn đã chú trọng phát triển ngành đóng thuyền, cả về kỹ thuật lẫn quy mô, chủng loại. Đây chính là tiền đề quan trọng và có những tác động tích cực đến sự phát triển của ngành đóng thuyền và hải quân nhà Nguyễn.

Vua Minh Mệnh đã thấy sự thay đổi của khoa học kỹ thuật phương Tây. Ông đã ra dụ cho cả nước: “Tìm những người phương Tây cư trú trong nước Việt Nam, dẫn họ sang kinh đô, cử họ về phương Tây, tìm các loại thợ về nước Việt Nam để chế tạo đồ vật” và ra lệnh cho thợ trong nước học tập kỹ thuật của họ, chế tạo tàu bọc đồng... Nhà vua đã ban thưởng cho những quan viên và thợ đã phỏng theo phương Tây chế tạo xe ca, tàu chạy bằng hơi nước. Ông quan sát rất kỹ việc chế tạo này.

Trong nhận thức của ông, sự phát triển của thủy quân trước hết phải nhờ vào những con tàu đắc lực. Ông từng chỉ dụ cho Bộ công rằng: “Việc lớn của thủy quân là tàu thuyền, trong đó việc chỉ hướng, trắc thủy và đo giờ là những nhân tố đặc biệt quan trọng cho việc hàng hải” theo “Đại Nam thực lục”.

Ông yêu cầu Bộ Công biên tập cuốn Hải Trình tập nghiệm, nội dung bao gồm: tóm tắt về mưa gió; những điều kiêng kỵ khi chạy tàu thuyền, đóng thuyền… để phát cho thủy quân. Nhà vua yêu cầu sát hạch, tăng cường đào tạo cho thủy quân: “Nước ta nhiều nơi ven biển, tàu thuyền, thủy quân là quan trọng nhất. Hành động của họ trông vào thủy thủ và thủy thủ là người thầy của một con tàu vì họ quen biết hải trình và hiểm trở”.

Không phải từ thời Minh Mệnh mà trước đó Chúa Nguyễn đã rất coi trọng phát triển hàng hải và thủy quân. Alexandre de Rhodes, vị giáo sĩ người Pháp đến Đàng Trong vào năm 1625 đã ước tính số tàu thuyền mà Chúa Nguyễn dùng để phòng vệ bờ biển bấy giờ là khoảng 200 chiếc.

“Trong 3 bến ở Đàng Trong… một bến ở vào cửa sông lớn, có lần người ta đếm tới 68 chiếc. Một bến khác rộng lớn hơn ở vào giữa lãnh thổ gọi là kẻ Chàm có rất nhiều dùng để bảo vệ đất nước và buôn bán với người Tàu thường tới bến này. Còn bến thứ ba thì vào giữa biên giới nước Chiêm Thành… Thuyền của Đàng Trong rất có thể lên tới con số hai trăm”, theo Alexandre de Rhodes - Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, NXB TP HCM.

Theo sách “Đại Nam thực lục”, tháng 3/1653, tại xã An Cựu ở Phú Xuân có cuộc duyệt binh lớn. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687) đã huy động một lực lượng thủy quân đông đảo để tham gia cuộc duyệt binh này với hơn 22.740 người và 377 thuyền được huy động. Một tư liệu khách cho biết đến năm 1674, lực lượng thủy quân của Chúa Nguyễn Phúc Tần có 133 chiến thuyền do các xưởng trực thuộc phủ Chúa đóng.

Theo Thomas Bowyear, một nhà buôn người Anh đã đến Đàng Trong hai năm 1695 - 1696, thì lực lượng thủy quân ở Đàng Trong thời Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) có “200 chiến hạm, mỗi chiếc có 15 đến 22 khẩu đại bác, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40 đến 44 tay chèo. 100 chiến thuyền lớn từ 50 đến 75 tay chèo, 3 chiếc của người châu Âu. Các chiến thuyền trên đều do phủ Chúa đóng”.

Cả Alexandre de Rhodes và Thomas Bowyear đều nhận định rằng vào thế kỷ XVII trình độ đóng thuyền và kỹ thuật của Đàng Trong không thua Đàng Ngoài. Nhờ vào lực lượng thủy quân hùng mạnh này mà năm 1644, Nguyễn Phúc Tần, lúc bấy giờ còn là thế tử, đã chỉ huy thủy quân của Chúa Nguyễn Phúc Lan (1600 - 1648), đánh bại một đội tàu của Hà Lan. Trước đó, năm 1585, theo lệnh của Nguyễn Hoàng, lực lượng hải quân Đàng Trong gồm 10 chiến thuyền do Nguyễn Phúc Nguyên (1563 - 1634) chỉ huy đã tấn công một đoàn thuyền lớn gồm 5 chiếc đến cướp ở Cửa Việt và đã đánh tan hai chiếc. Như vậy, nhà Nguyễn đã rất coi trọng việc bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển. Việc xây dựng lực lượng thủy binh hùng mạnh là một trong những biểu đạt rõ rệt của các chính thể trong việc nhận thức vai trò, vị trí, chủ quyền biển đảo và thực tế đã khẳng định được chủ quyền, bảo vệ vững chắc đất nước cũng như hoạt động kinh tế đối ngoại.

Ngoài tiếp thu khoa học của phương Tây cho hải quân, Vua Minh Mệnh cũng là người có tư tưởng “thiên nhân cảm ứng”, thờ cúng các vị thần biển với ý thức xin được phù hộ, chở che như ngư dân. Nhà vua cho rằng, sở dĩ có tai nạn xảy ra là vì trời muốn nhân ái và giáo dục người quân chủ: “Trời có lòng nhân ái quân chủ, nếu quân chủ có sai lầm, như là sự xuất hiện của vĩ, không phải căm ghét quân chủ, mà để giáo dục quân chủ”, “cho nên đối với quân chủ trị nước, điều quan trọng không phải không có tai nạn, mà là biết sợ khi gặp tai nạn”, theo “Minh Mệnh chính yếu”.
Khi đắp Thành Trấn Hải vùng Huế hay khai thông đường thủy cửa Thuận An đều thành khẩn cầu xin thần biển. Nhà vua nhiều lần tỏ ý rằng: “Lòng trẫm ngày càng được giao cảm với trời, nên ta càng kính khẩn” hay “chỉ biết mang ơn trời nhiều nên mới càng kính khẩn và sợ thôi”. Ông đã cho nâng cấp thờ tự Miếu Hội Đồng và các vị thần biển để cầu xin phù hộ cho biển yên sóng lặng, an toàn cho vận chuyển hàng hải, ngư dân, thủy quân, vững bền cho bờ cõi trên biển.

Tuấn Ngọc

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/chinh-sach-ve-bien-cua-vua-minh-menh.html