Cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống ma túy
Bộ Công an đã hoàn thành dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy để lấy ý kiến đóng góp của cơ quan tổ chức, cá nhân.
Tại dự thảo tờ trình dự án Luật, Bộ Công an cho biết, thời gian qua, Đảng, nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp chỉ đạo triển khai quyết liệt, tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy, bảo đảm tính xuyên suốt giữa hoạt động giảm cung với giảm cầu trong phòng, chống ma túy, thay đổi căn bản, hiệu quả công tác cai nghiện ma túy.
Bên cạnh đó, thực hiện các văn bản chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, nhiệm vụ quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy đã được chuyển từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về Bộ Công an. Do đó, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo mới của Đảng, nhà nước và phù hợp với sự thay đổi của cơ quan chủ trì quản lý công tác này.
Bên cạnh đó, quá trình tổ chức thực hiện Luật Phòng, chống ma túy trong những năm qua đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc nhất định và phát sinh những vấn đề mới cần sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục, giải quyết và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy trên thực tế.

Cán bộ Công an hướng dẫn, dạy nghề cho học viên tại cơ sở cai nghiện ma túy TP Huế.
Cụ thể, theo Bộ Công an, về công tác kiểm soát các hoạt động hợp pháp về ma túy, khoản 4 Điều 2 quy định “Tiền chất là các hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma túy” là chưa phù hợp. Bởi lẽ, thực tế hiện nay các đối tượng có thể thay thế nhiều loại tiền chất khác nhau để điều chế, sản xuất chất ma túy. Bên cạnh đó, hiện nay một số loại thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản có chứa chất ma túy, tiền chất được sử dụng phổ biến trên thế giới nhằm tăng năng suất, chất lượng chăn nuôi. Tuy nhiên, ở Việt Nam các loại thức ăn này không được nhập khẩu để sử dụng do chưa được đưa vào danh mục kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì vậy ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản trong nước.
Liên quan đến công tác quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, thực tiễn việc quản lý đối với người sử dụng trái phép chất ma túy đi khỏi địa bàn, người sử dụng trái phép chất ma túy không nơi cư trú ổn định gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể, tư vấn, giáo dục, động viên, quản lý phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật. Trong thời gian quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, khi có thông tin người đó sử dụng trái phép chất ma túy, Công an xã yêu cầu người đó xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể nhưng họ không chấp hành. Trong khi đó, quy định của pháp luật thì không được cưỡng chế hay có chế tài xử lý nên rất khó khăn trong thực tiễn, không có tính răn đe, giáo dục đối với người sử dụng trái phép chất ma túy, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Cũng theo Bộ Công an, tại điểm b, khoản 5 Điều 23 Luật Phòng, chống ma túy quy định “Đưa ra khỏi danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy đối với người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy” là không phù hợp với thực tiễn bởi vì bản thân họ vẫn được xác định là người sử dụng trái phép chất ma túy đang ở ngoài cộng đồng nên không đưa ra khỏi danh sách quản lý được.
Về công tác xác định tình trạng nghiện ma túy, theo Bộ Công an, việc xác định tình trạng nghiện ma túy gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: Người nghiện không hợp tác với lực lượng chức năng; cơ sở vật chất, nhân lực thực hiện xác định tình trạng nghiện còn thiếu, nhất là ở cấp xã, không đảm bảo cho việc thực hiện xác định tình trạng nghiện. Đối với người nghiện các loại ma túy tổng hợp, biểu hiện trạng thái rất đa dạng và không điển hình, trong khi đó xu thế hiện nay người nghiện đang chuyển dần sang sử dụng ma túy tổng hợp.
Thực tế hiện nay nếu không xác định được tình trạng nghiện ma túy thì sẽ không áp dụng được biện pháp cai nghiện đối với người nghiện. Trong khi đó việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là việc tư vấn, giáo dục. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chỉ bị xử phạt hành chính là chưa đủ mức răn đe. Nếu nâng cao mức xử phạt hành chính thì đa số người sử dụng trái phép chất ma túy không thực hiện được.
Khoản 6 Điều 30 của Luật quy định trách nhiệm của Chủ tịch UBND cấp huyện trong việc thực hiện cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng nhưng sắp tới không còn tổ chức hành chính cấp huyện. Do vậy quy định này không còn phù hợp.
Bên cạnh đó, hiện nay cả nước hiện có 13 cơ sở cai nghiện ma túy do tư nhân thành lập với công suất tiếp nhận khoảng 1.000 người nghiện. Đây là lĩnh vực đặc thù do vậy rất khó thu hút cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vì khó thu được lợi nhuận. Nhà nước chưa có chính sách cụ thể miễn, giảm tiền thuế đất, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với tổ chức, cá nhân đầu tư vào công tác cai nghiện tự nguyện. Mặt khác, chế độ, chính sách đối với người cai nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện chưa được ngân sách nhà nước hỗ trợ.
Đối với công tác cai nghiện ma túy bắt buộc, trong thời gian lập hồ sơ đưa người nghiện đi cai nghiện ma túy bắt buộc, người nghiện thường bỏ trốn mặc dù giao cho gia đình quản lý nhưng gia đình vẫn không quản lý được. Trong khi đó quy định của pháp luật không có chế tài xử lý đối với trường hợp này (cả về phía gia đình cũng như người nghiện) từ đó dẫn đến việc chấp hành pháp luật không nghiêm gây khó khăn cho các lực lượng thực hiện nhiệm vụ. Một số trường hợp người nghiện ma túy sau khi Tòa án ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã bỏ trốn, không chấp hành.
Sau một thời gian dài người này quay trở lại địa phương và lấy lý do không còn nghiện ma túy nên không chấp hành quyết định của Tòa án đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, gây khó khăn trong công tác quản lý của các địa phương. Việc tổ chức học văn hóa cho người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi cai nghiện bắt buộc tại các cơ sở cai nghiện công lập là không thực hiện được do số lượng người nghiện từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện công tác cai nghiện rất ít, thuộc nhiều độ tuổi, cấp học khác nhau. Vì vậy rất khó để bố trí việc dạy văn hóa cho các em.
Theo quy định của khoản 2 Điều 95 của Luật Xử lý vi phạm hành chính thì thời hạn áp dụng cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện từ đủ 18 tuổi trở lên là từ đủ 12 tháng đến 24 tháng. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó cho việc xác định khi nào áp dụng 12 tháng, trên 12 tháng hoặc 24 tháng. Tương tự như vậy, khoản 3 Điều 30 của Luật Phòng, chống ma túy quy định thời hạn cai nghiện bắt buộc đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi là từ đủ 6 tháng đến 12 tháng.
Đối với công tác quản lý sau cai nghiện ma túy, người nghiện ma túy không khai báo khi hoàn thành cai nghiện, bỏ đi khỏi địa phương nên công tác quản lý sau cai và lập hồ sơ đưa vào danh sách quản lý sau cai gặp khó khăn. Việc hỗ trợ trong quá trình quản lý sau cai nghiện ma túy và hòa nhập cộng đồng còn chung chung, chưa được quan tâm đầu tư, chưa có biện pháp, mô hình tốt giúp đỡ người sau cai nghiện. Do không có việc làm, không có thu nhập để tự nuôi sống bản thân nên người sau cai nghiện dễ bị lôi kéo thực hiện phạm tội về ma túy và tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với người không có nơi cư trú ổn định rất khó khăn trong công tác quản lý sau cai.
Cũng theo Bộ Công an, thời gian qua, sự quan tâm, phối hợp của chính quyền các cấp, các ngành trong công tác quản lý sau cai còn hạn chế. Bên cạnh đó, Luật Phòng, chống ma túy chưa có quy định tiêu chuẩn về xây dựng Cơ sở cai nghiện ma túy; quản lý, điều hành các cơ sở cai nghiện công lập.
Như vậy, việc xây dựng và ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy sẽ thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính; tuân thủ các quy định của Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm quản lý nhà nước của các cơ quan, tổ chức về phòng, chống ma túy bảo đảm phù hợp với việc sắp xếp tổ chức bộ máy của các bộ, ngành, địa phương; hoàn thiện cơ sở pháp lý về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, cai nghiện ma túy để bảo đảm phù hợp với tổ chức bộ máy mới và khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành thời gian qua.