Cải cách thuế thu nhập cá nhân đảm bảo 'theo kịp' biến động kinh tế, xã hội

Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã bộc lộ một số hạn chế cần được nghiên cứu sửa đổi phù hợp nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng, khuyến khích sản xuất, tiêu dùng, hội nhập kinh tế quốc tế gắn với thúc đẩy phát triển bền vững.

Bộc lộ bất cập

Tại Hội thảo Luật Thuế TNCN - Đảm bảo công bằng, thúc đẩy tăng trưởng tổ chức ngày 14/3, PGS. TS. Phan Hữu Nghị - Phó Viện trưởng Viện Ngân hàng - Tài chính (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho biết, thuế TNCN là một trong 9 loại thuế của Việt Nam hiện nay. Năm 2024, sắc thuế này đóng góp hơn 198 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 10%) vào tổng thu ngân sách nhà nước. Tỷ trọng thu thuế trên tổng thu ngày một tăng đã góp phần điều tiết thu nhập tạo công bằng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng cùng với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội, thuế TNCN bộc lộ những hạn chế cần chỉnh sửa, bổ sung hướng đến mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội, tăng nguồn thu ngân sách và thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế với chiến lược tăng trưởng hai con số từ năm 2026.

Luật Thuế TNCN được Quốc hội thông qua năm 2007 và áp dụng từ 2009, nhưng quá trình thực thi đã bộc lộ bất cập, dẫn đến các điều chỉnh quan trọng. Năm 2012, mức giảm trừ gia cảnh tăng từ 4 triệu lên 9 triệu đồng/tháng với cá nhân và từ 1,6 triệu lên 3,6 triệu đồng/tháng với người phụ thuộc nhằm phản ánh mức sống và lạm phát. Năm 2020, mức này tiếp tục tăng lên 11 triệu đồng và 4,4 triệu đồng/tháng do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và lạm phát.

Như vậy, lộ trình điều chỉnh thuế TNCN đã có những thay đổi nhằm phù hợp hơn với thực tế đời sống và kinh tế - xã hội.

Phân tích kỹ hơn, PGS. TS. Phan Hữu Nghị chỉ ra, dữ liệu thuế TNCN và thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2020 - 2024 cho thấy mức thu thuế tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Cụ thể, tổng thu thuế tăng 72% (từ 115 lên 198 nghìn tỷ đồng), trong khi thu nhập bình quân đầu người chỉ tăng 30,2% (từ 3.548 USD lên 4.622 USD/năm). Lạm phát trung bình hàng năm dao động từ 0,81% - 4,16%, khiến mức tăng thực tế của thu nhập thấp hơn con số danh nghĩa.

Tổng lạm phát cộng dồn khoảng 12,58%, khiến sức mua thực tế của người dân không tăng tương ứng với mức tăng thu nhập. Trong khi đó, tổng thu thuế TNCN vẫn tăng liên tục, tạo áp lực tài chính, đặc biệt với người có thu nhập trung bình.

Chia sẻ về quy định giảm trừ gia cảnh, PGS. TS. Lê Xuân Trường - Trưởng Khoa Thuế và Hải quan (Học viện Tài chính) cho biết, theo Luật Thuế TNCN, giảm trừ gia cảnh khi tính thuế TNCN ở Việt Nam áp dụng đối với bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc. Luật Thuế hiện hành quy định, khi chỉ số giá tiêu dùng biến động từ 20% trở lên thì Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh.

“Có thể thấy, khi so sánh mức giảm trừ bản thân của Việt Nam với GDP bình quân đầu người thì mức giảm trừ bản thân của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. So với Indonesia, một nước trong khu vực Đông Nam Á và ở trình độ phát triển tương đương (GDP bình quân đầu người năm 2024 là 4.981 USD, còn của Việt Nam là 4.700 USD) thì mức giảm trừ bản thân người nộp thuế của Việt Nam cao hơn khoảng 50%”, ông Lê Xuân Trường nhận định.

Nghiên cứu kỹ về mức giảm trừ gia cảnh và khoảng cách bậc

Tại Hội thảo, đưa ra khuyến nghị về việc sửa đổi Luật Thuế TNCN, bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam cho rằng, cần nghiên cứu kết hợp nâng mức giảm trừ gia cảnh và giãn khoảng cách giữa các bậc thuế, nghiên cứu bỏ thuế suất 35%; nghiên cứu giảm thuế đối với một số lĩnh vực cần khuyến khích, thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao để đảm bảo những người có thu nhập khác nhau đều được giảm điều tiết về thuế, đảm bảo bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế.

Vấn đề xác định người phụ thuộc có thu nhập trên mức 1 triệu đồng bình quân tháng trong năm cũng cần xem xét thay đổi với thực trạng quản lý thuế TNCN và chính sách điều tiết thuế công bằng, bình đẳng, khuyến khích lao động tăng thu nhập.

Bà Nguyễn Thị Cúc cũng cho rằng, cùng với điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, biểu thuế lũy tiến từng phần, chính sách ưu đãi cần chi tiết thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công đảm bảo rõ ràng, minh bạch. Đặc biệt là thu nhập bằng hiện vật, các khoản lợi ích được hưởng, tương đồng giữa thu nhập từ tiền lương, tiền công với thu nhập khác, giữa thuế TNCN với các sắc thuế khác. Ngoài thuế TNCN từ tiền lương, tiền công, cần nghiên cứu đồng bộ các khoản thu nhập chịu thuế khác theo quy định của luật hiện hành.

PGS. TS. Phan Hữu Nghị khuyến nghị, xu hướng cải cách thuế TNCN của các nước hiện nay đều tập trung vào một số mục tiêu chính: thứ nhất là giảm gánh nặng thuế cho người lao động, những người sống chủ yếu bằng tiền lương, tiền công, tiền thù lao; thứ hai là tăng cường công bằng thuế, đặc biệt cần tạo công bằng dọc; thứ ba là mở rộng cơ sở thuế thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế số và toàn cầu hóa. Do vậy, việc cải tiến phương thức khai thuế, ứng dụng công nghệ để đồng bộ dữ liệu thu nhập và xây dựng hệ thống hoàn thuế minh bạch là những giải pháp cần thiết để đảm bảo công bằng trong thuế TNCN, giúp tăng hiệu quả thu ngân sách mà không tạo ra gánh nặng không đáng có đối với người lao động.

Thùy Linh

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/cai-cach-thue-thu-nhap-ca-nhan-dam-bao-theo-kip-bien-dong-kinh-te-xa-hoi.html