Bảo Lộc đặt mục tiêu tăng trưởng 10% trong năm 2020
Mặc dù mức tăng trưởng một vài lĩnh vực không đạt như chỉ tiêu Nghị quyết HĐND thành phố đặt ra nhưng mức tăng trưởng kinh tế chung của Bảo Lộc năm 2019 vẫn đảm bảo chỉ tiêu nghị quyết. Và từ nỗ lực này là tiền đề để thành phố Bảo Lộc đặt ra mục tiêu phấn đấu mức tăng trưởng kinh tế từ 9 - 10% trong năm 2020.

Tự động hóa giúp chất lượng lụa Bảo Lộc ngày càng nâng cao. Ảnh: K.Phúc
Từ các chỉ số kinh tế thành phần mà báo cáo tổng kết năm 2019 của thành phố Bảo Lộc chỉ ra, kết quả nổi bật nhất đến từ khu vực sản xuất công nghiệp - xây dựng trên địa bàn thành phố. Qua đó, lĩnh vực này tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn định với giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 5.797 tỷ đồng, tăng 9,6% so cùng kỳ. Và nếu so với Nghị quyết HĐND thành phố đề ra, công nghiệp - xây dựng tăng từ 9 - 9,5% thì Bảo Lộc tăng cao hơn mục tiêu dẫu chỉ vượt 0,01% điểm so với chỉ tiêu phấn đấu. Trong đó, lĩnh vực công nghiệp ước đạt 4.035 tỷ đồng, tăng 9,3%; còn lĩnh vực xây dựng ước đạt 1.762 tỷ đồng, tăng 5% so cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, sản xuất phân phối điện, nước ước đạt 410,425 tỷ đồng, tăng 2% so với cùng kỳ và với mức tăng này có phần đóng góp của Nhà máy Thủy điện ĐamB’ri mới hòa vào lưới điện. “Tựu trung, các chỉ tiêu sản xuất công nghiệp đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra là do có một số sản phẩm mới đóng góp vào giá trị phát triển của nội ngành như sản phẩm đồ uống của Nhà máy bia Sài Gòn, sản phẩm điện của Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển ĐamB’ri; một số doanh nghiệp may mặc mới phát sinh như Công ty May mặc An Thái, Công ty May First Team, các doanh nghiệp ươm tơ dệt lụa như Công ty Minh Thành, Công ty Toàn Silk...” - báo cáo của UBND thành phố Bảo Lộc đánh giá.
Trong khi các chỉ tiêu sản xuất công nghiệp đều đạt và vượt thì ở khu vực thương mại - dịch vụ của thành phố tuy có mức tăng trưởng cao trên hai con số, song không đạt chỉ tiêu kỳ vọng mà Nghị quyết của HĐND thành phố đề ra. Cụ thể, giá trị sản xuất ngành dịch vụ (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 6.089 tỷ đồng, tăng 11,2% so cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 8.199 tỷ đồng, tăng 14% so cùng kỳ. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 298 triệu USD, tăng 18% so với cùng kỳ, trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là cà phê, chè chế biến các loại, tơ lụa các loại, hàng dệt may… Tuy nhiên, nếu so với Nghị quyết HĐND thành phố đối với mức tăng chung của ngành dịch vụ tăng từ 12,5 - 13%, thì mức tăng 11,2% trong năm 2019 vừa qua chưa đạt như mong muốn.
Riêng đối với khu vực sản xuất nông nghiệp tuy bị ảnh hưởng của dịch bệnh, giá cả nông sản không ổn định nhưng vẫn phục hồi và phát triển so với năm trước. Đáng chú ý, một số diện tích trên cây trồng chủ lực giảm, song năng suất được cải thiện tăng lên mà điển hình là cây cà phê ước diện tích thâm canh là 13.027 ha, trong đó diện tích thu hoạch ước đạt 12.150 ha, tăng 1,0%; diện tích trồng mới uớc đạt 230 ha, giảm 3,4%; năng suất ước đạt 29,9 tạ/ha, tăng 1,0%; sản lượng cà phê ước đạt 36.307 tấn, tăng 2,0% so với niên vụ trước và với giá bán dao động 31.000 - 32.000 đồng/kg, giảm 5,9% so cùng kỳ. Đặc biệt, diện tích chè có xu hướng ngày càng giảm do một phần diện tích chè già cỗi chuyển đổi sang diện tích cà phê nên hiện toàn thành phố có 2.871 ha, giảm 0,3% so cùng kỳ, trong khi đó diện tích trồng mới đạt 10 ha, giảm 80%. Tuy diện tích chè giảm nhưng năng suất ước đạt 115,5 tạ/ ha, sản lượng ước đạt 32.627 tấn, bằng so với năm 2018. Trái với cây cà phê, chè giảm diện tích canh tác thì cây dâu tằm và cây ăn trái lại tăng. Trong năm qua, diện tích cây dâu đạt 658 ha, tăng 12,1% so cùng kỳ, trong đó diện tích thu hoạch ước đạt 572 ha, tăng 11,9%, sản lượng ước đạt 11.566 tấn, tăng 13%. Tương tự, diện tích cây ăn quả tăng so với cùng kỳ, chủ yếu trồng giống cây ăn quả có hiệu quả kinh tế và phù hợp với thổ nhưỡng của địa phương nên diện tích hiện có là 1.125 ha, tăng 12,6% so cùng kỳ và sản lượng ước đạt 8.870 tấn, tăng 2,3%.
Trong năm qua, lĩnh vực bị ảnh hưởng nhất phải kể đến ngành chăn nuôi, bởi do bệnh dịch tả lợn châu Phi mà thành phố Bảo Lộc cũng không nằm ngoài vùng có dịch bệnh. Vì vậy, tính đến cuối năm 2019, tổng đàn heo đạt 56.492 con, giảm 15,6% so cùng kỳ, dẫn tới sản lượng thịt heo hơi chỉ đạt 12.124 tấn, giảm 15,6%... Bù đắp cho đàn heo sụt giảm, tổng đàn bò ước đạt 3.517 con, tăng 0,6%, cùng với tổng đàn gia cầm phát triển hơn so với cùng kỳ năm trước. Đơn cử tổng đàn gà đạt 399 ngàn con, tăng 58%; đàn cút đạt 3.100 ngàn con, tăng 41,0%. Nhìn chung, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp của thành phố Bảo Lộc năm 2019 ước đạt 2.231 tỷ đồng, tăng 2% so cùng kỳ; trong đó, ngành trồng trọt tăng 2% chủ yếu là sản lượng cà phê, dâu tằm tăng, nhưng so với Nghị quyết HĐND thành phố đề ra tăng từ 4,5 - 6% thì mức gia tăng giá trị ngành sản xuất nông nghiệp của toàn thành phố mới chỉ đạt chưa đầy 50% mục tiêu của nghị quyết.
Theo đánh giá của UBND thành phố Bảo Lộc, năm 2019, kinh tế - xã hội của thành phố tiếp tục tăng trưởng khá so với cùng kỳ, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực mà cụ thể là tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 9%, so với chỉ tiêu Nghị quyết HĐND thành phố đề ra tăng từ 9 - 9,5%. Bên cạnh kết quả đạt được, thành phố Bảo Lộc cũng nhìn ra một số hạn chế, đó là kinh tế tiếp tục phát triển nhưng tốc độ tăng trưởng của một số ngành sản xuất chưa ổn định, có 2/10 chỉ tiêu chưa đạt với kế hoạch đề ra; nguồn lực dành cho đầu tư, phát triển còn hạn chế, khả năng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn hạn hẹp, việc huy động các nguồn vốn đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Với những nhận diện nêu trên, HĐND thành phố Bảo Lộc đã ban hành Nghị quyết số 12/NQ - HĐND về “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020” trên địa bàn thành phố với mục tiêu phấn đấu mức tăng trưởng giá trị sản xuất tăng từ 9 - 10,2%; trong đó công nghiệp - xây dựng tăng từ 9,3 - 11%; dịch vụ tăng từ 11 - 12% và nông nghiệp tăng 2,3% trong năm 2020 này.