Bài 1: Hà Nội vẫn là mạch nguồn cảm hứng văn chương
Dẫu đô thị hóa diễn ra sôi động với những cao ốc, đường sá mở rộng, Hà Nội vẫn giữ được chất thơ trong văn chương. Từ trang bút của Thạch Lam, Nguyễn Tuân đến nét chấm phá đương đại của Nguyễn Trương Quý, Đỗ Phấn, Uông Triều, Thủ đô chưa bao giờ cạn nguồn cảm hứng. Thách thức đặt ra cho những người viết hôm nay không phải tìm kiếm đề tài, mà chạm khẽ vào Hà Nội bằng ngôn từ đủ dày, đủ tinh.
Để Hà Nội thanh lịch không chỉ là tiếng vọng ký ức trong trang sách

Những khung cửa sổ xanh cũ kỹ, hoa giấy bung nở và mạng dây điện chằng chịt trên mái hiên – bức họa sống động của phố phường Hà Nội, nơi ký ức quá khứ giao hòa với hơi thở đô thị hiện đại. Ảnh: Thành Đạt.
LTS: Trong Hội nghị sơ kết giữa nhiệm kỳ Chương trình 06/CTr-TU của Thành ủy về “Phát triển văn hóa, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh” giai đoạn 2021 - 2025, đồng chí Nguyễn Văn Phong - Phó Bí thư Thành ủy đã nhận định: “Vẫn chưa có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị cao, tạo dấu ấn về tư tưởng và nghệ thuật của Thủ đô”. Văn học không chỉ là tiếng vọng ký ức mà còn là tiếng nói của hiện tại và định hướng cho tương lai. Để Hà Nội thanh lịch không chỉ trong trang sách mà còn hiện dòng diện trong từng hành vi của đời sống đô thị hôm nay, văn học cần được khơi trở lại – với tâm huyết, trách nhiệm và tình yêu của cả người viết lẫn người đọc. Đó là lí do Ấn phẩm Pháp luật & Xã hội - Báo Kinh tế và Đô thị thực hiện loạt bài: Để Hà Nội thanh lịch không chỉ là tiếng vọng ký ức trong trang sách
Hà Nội - dòng chảy văn chương xuyên thế kỷ

Tái hiện đám cưới thời "ông bà anh" tại không gian "Hà Nội - Chạm miền ký ức". Ảnh: Hồng Nhung
Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng cho văn chương Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay. Cảnh sắc Hà Nội đầu thế kỷ XX đã gợi cảm hứng mạnh mẽ cho Thạch Lam. Trong Hà Nội băm sáu phố phường, từng góc ngõ ẩm ướt sương sớm, mái ngói rêu phong, hàng cây nghiêng bóng làm nên bức tranh trầm lặng không thể nhầm lẫn. Giữa những trang viết ngắn, ông để lại ấn tượng về hồn phố giàu chất hoài niệm. Còn với Nguyễn Tuân, ông chọn góc nhìn văn hóa – nghệ thuật, men theo những giai thoại hiếm có, dẫn dắt người đọc vào lớp ngần ngừ của Thủ đô kinh kỳ qua tác phẩm Một chuyến đi. Vũ Bằng thì dành trọn vẹn ký ức cho tháng mười hai Hà Nội, cho hương cốm đầu mùa, cho mùi hoa sữa liêu xiêu trong gió, kết thành hành trang vô giá trong Thương nhớ mười hai.
Chuyển giao sang thế kỷ XXI, nhiều lối viết mới được hình thành. Nguyễn Trương Quý khắc họa đời sống giải trí đô thị những năm trước và sau 1954 qua du khảo Một thời Hà Nội hát – Tim cũng không ngờ làm nên lời ca (2018). Đỗ Phấn lại dùng con chữ làm bản đồ thị dân, ghi lại từng quán nước, gánh hàng rong, mái hiên vỉa hè qua bốn tập tản văn – nơi đời sống giao thoa, ký ức cá nhân hòa quyện ký ức tập thể. Uông Triều dấn thân vào lịch sử, đặt Hà Nội hôm nay bên cạnh những dấu tích thời phong kiến, thời Pháp thuộc, thời kháng chiến, cấu thành bức tranh toàn diện mang tên Hà Nội những mùa cổ điển.

Tái hiện đám cưới thời "ông bà anh" tại không gian "Hà Nội - Chạm miền ký ức". Ảnh: Hồng Nhung
Qua nhiều thế hệ, Hà Nội vẫn hiện hữu trong văn chương với những góc nhìn hiện đại hơn. Uông Triều lại đan xen lịch sử và đời sống đương đại trong tiểu thuyết Hà Nội những mùa cổ điển (NXB Văn học, 2024). Tác phẩm này kết hợp câu chuyện cá nhân với các dấu tích thời phong kiến, thời Pháp thuộc, thời kháng chiến, đem đến góc nhìn đa chiều cho Thủ đô.
Bên cạnh đó, những tác phẩm biên khảo về Hà Nội của các tác giả như Nguyễn Khải và Hoàng Đạo Thúy cũng được đánh giá cao. Ví dụ, truyện ngắn Một người Hà Nội (1990) của Nguyễn Khải đã khắc họa một phụ nữ Hà Nội gốc “cô Hiền” như hình ảnh tinh túy, đại diện cho “hồn thiêng” ngàn năm văn hiến của Hà Nội. Còn tập ký Phố phường Hà Nội xưa (2015) của Hoàng Đạo Thúy ghi chép phong tục và lịch sử Thủ đô, với lời nhận xét rằng đây là những “chuyện muôn năm cũ” cần được kể lại để hiểu rõ giá trị văn hóa của đất Hà Nội.

Xe xích lô chở nhà trai đi ăn hỏi trên phố cổ Hà Nội. Ảnh: Khánh Huy
Các tác phẩm trên tạo nên một di sản văn chương Hà Nội muôn màu. Cổ điển hay hiện đại, ký ức hay hiện thực, mỗi tác phẩm bổ sung lớp đa chiều cho bức tranh văn học Thủ đô. Nguồn cảm hứng vẫn tuôn trào, con người vẫn lên tiếng làm sống lại Hà Nội trên trang giấy.
Theo nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, Thủ đô có một đặc điểm quan trọng nhất, đó là khả năng hội tụ và lan tỏa. Hà Nội là nơi thu hút những tinh hoa, người tài giỏi, những con người mang theo phong cách, lối sống và văn hóa của khắp mọi miền đất nước đến đây sinh sống, làm việc. Dù chỉ là người đi qua, họ cũng để lại trong mình ít nhiều dấu ấn của Hà Nội - đó chính là sự hội tụ.

Từng khung cửa gỗ, từng ánh nhìn trầm lặng như chứa đựng bao lớp ký ức - nơi khởi nguồn của những truyện ngắn “Một người Hà Nội”, “Hà Nội băm sáu phố phường”.
Chính từ sự hội tụ ấy, người Hà Nội hình thành nên một tính cách rất riêng: vừa mang bản sắc của người bản địa gốc, vừa tiếp nhận, chắt lọc những nét hay, đẹp, tinh tế của nhiều vùng miền khác. Hà Nội vì thế tạo nên giá trị đặc trưng, một bản sắc không thể nhầm lẫn. Người ta vẫn thường khái quát tính cách Hà Nội bằng bốn chữ: “hào hoa và thanh lịch”.
Điều này khiến người Hà Nội khác biệt với người Sài Gòn - nơi cũng có thể miêu tả bằng bốn chữ: “hào sảng và nghĩa khí”. Tuy cùng mang những đặc điểm của người Việt như lòng nhân ái, giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, nhưng ở Hà Nội, những phẩm chất ấy được chưng cất, tinh luyện thành một vẻ đẹp rất riêng - vẻ đẹp tự nhiên, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Khi tiếp xúc, trò chuyện với người Hà Nội, ta dễ dàng cảm nhận được sự sang trọng, hào hoa toát ra một cách tự nhiên, không phô trương.
Và điều đáng nói là, chất Hà Nội ấy không chỉ tồn tại ở những người gốc Hà Nội. Thế nào là “gốc Hà Nội”? Là bao nhiêu đời sống tại đây? Thực tế, có nhiều người từ nơi khác đến, nhưng sống lâu, hiểu và thấm được văn hóa Hà Nội, họ dần dần hình thành nên cái “chất” Hà Nội trong chính con người mình. Khi tiếp xúc với họ, ta cảm nhận rõ nét sự tinh tế, lịch lãm - thứ tạo nên cái “chất người Hà Nội” mà không cần họ phải sinh ra ở mảnh đất này.

Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên
Chính chất đó làm nên vẻ đẹp nghệ thuật của Hà Nội, đưa con người Hà Nội đi vào văn chương, đi vào âm nhạc một cách tự nhiên, đầy cảm xúc. Chẳng hạn, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1946, rất nhiều thanh niên Hà Nội đã rời thành phố lên đường ra chiến trận. Họ ra đi trong khí thế sục sôi, trong niềm tin vào ngày trở về. Trong thi ca, hình ảnh những chàng trai Hà Nội lên đường được khắc họa đầy cảm động: người lính rách tả tơi, đôi giày sứt mòn, vai đeo ba lô bạc màu... nhưng vẫn toát lên vẻ hào hoa, khí phách. Một vẻ đẹp hùng dũng, mang đậm chất người Hà Nội.
Hoặc khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết những câu thơ rất đỗi dịu dàng mà da diết:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những mùa thu đã qua
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội”.
Những câu thơ ấy gợi lên quang cảnh Hà Nội buổi chia ly - hàng phố dài vắng lặng, người ra đi đầu không ngoảnh lại, phía sau là nắng thu trải đầy hiên. Đó không chỉ là cảnh chia tay, mà là nỗi nhớ khắc khoải về một Hà Nội thanh lịch, nên thơ.
Bài hát “Người Hà Nội” ra đời trong hoàn cảnh đó. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã gọi tên người Hà Nội bằng những hình ảnh:
“Người Hà Nội, hào hoa phong nhã
Người Hà Nội, bình dị mà cao cả”.
Người Hà Nội ra trận cũng gian khổ, cũng hy sinh, cũng lẫm liệt như bao người con đất Việt khác. Nhưng từ trong gian khổ ấy, cái chất riêng vẫn ánh lên, sáng lên - vừa riêng của Hà Nội, vừa là hình ảnh tiêu biểu cho cả dân tộc.
Cũng như mỗi vùng miền đều có đặc điểm riêng: Huế trầm lắng, cổ kính; Sài Gòn phóng khoáng, nghĩa tình. Hà Nội là nơi kết tinh của nhiều nét đẹp văn hóa, nhưng vẫn giữ được cho mình một bản sắc rất riêng. Trong văn chương xưa, từ thuở Thăng Long, Kinh Kỳ cho đến nay, chất Hà Nội ấy vẫn luôn hiện diện - lúc dịu dàng, lúc sang trọng, khi đĩnh đạc, khi hào hoa.
Tôi đã sống ở Hà Nội hơn nửa thế kỷ. Nhưng mỗi lần tiếp xúc với những con người mang trong mình chất Hà Nội, tôi vẫn thấy mình như được lan tỏa, được thấm nhuần. Và cũng tự nhận rằng, chất Hà Nội trong tôi vẫn còn chưa đủ đầy. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà người ta bảo, ai làm văn, viết chữ thì ít nhất cũng phải một lần ra Hà Nội, sống ở đó, thấm được văn hóa nơi ấy. Có như vậy, mới hiểu được cái đẹp của Hà Nội, mới thấy được chất nghệ sĩ - chất văn chương trong con người Hà Nội.
Chính sự hào hoa, thanh lịch ấy là dấu ấn sâu đậm nhất mà Hà Nội để lại trong văn học nghệ thuật Việt Nam.
Thực trạng văn học Hà Nội hiện đại

Làng cổ Cự Đà - bộ bảo tàng kiến trúc sống ven đô. Ảnh: Khánh Huy
Tại Hội nghị Tổng kết Chương trình số 06-CTr/TU giai đoạn 2021-2025 tổ chức ngày 28/3/2025, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Phong khẳng định: “Chương trình số 06 đã góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển Thủ đô”. Thực tế này gắn với tốc độ đô thị hóa cao, nhiều khu phố cũ san thành tòa nhà mới, cảnh quan biến chuyển nhanh. Thiếu đi những di sản cư trú, đường sá thay đổi chóng mặt khiến người viết gặp khó trong việc giữ lại chất Hà Nội truyền thống.
PGS. TS Ngô Văn Giá từng nhận định: “Trong việc khai thác các đề tài văn học về Hà Nội, hiện rất ít tác giả chuyên tâm đóng góp, thành tựu cũng chưa thực sự nổi bật như các cây bút lớn trước kia. Các điểm nhìn ngày nay bị phân hóa, khó hình thành dòng văn học Hà Nội rõ rệt”. Theo ông, các cây bút trẻ dễ bị cuốn theo nội dung ngắn, nhanh trên mạng xã hội nên khó giữ được chiều sâu và dấu ấn riêng. Dòng văn học Hà Nội vì thế ngày càng loãng, thiếu cá tính. Để khơi dậy mạch nguồn này, nhà văn cần bản lĩnh trong cách tiếp cận và ngôn ngữ thể hiện.

Hà Nội những ngày rợp bóng cờ Tổ quốc. Ảnh: Khánh Huy
Văn chương Hà Nội không cần tô hồng, không nên né tránh những ngổn ngang thực tại. Người viết cần trở thành phóng viên của cuộc sống, ghi chép bằng giác quan – mùi rơm khô nơi góc chợ Long Biên, vị mặn mòi của xà phòng trên tay những cụ già chải tóc bên hồ Gươm, âm hưởng của tiếng chuông chùa trong ngõ yên tĩnh.
Khi ngôn ngữ đủ loại lên tiếng, khi trải nghiệm được kể bằng giọng điệu riêng, Hà Nội sẽ mãi không cạn mạch văn chương. Người viết có thể dùng bút pháp phóng túng trong tản văn, lối kể chắt chiu trong truyện ngắn, hoặc phương pháp kết hợp hình ảnh – âm thanh – ký họa để tạo sức nặng nghệ thuật.
Mạch nguồn bất tận ấy đòi hỏi người viết có bản lĩnh chống lại áp lực thị trường. Chỉ khi dám dành thời gian quan sát, dám thử nghiệm cấu trúc và ngôn từ, dám phản biện thực tại, văn học Hà Nội mới khởi sắc. Giữa những tòa cao ốc, giữa âm thanh xe cộ ầm ĩ, vẫn tồn tại những góc yên bình chờ được ghi lại – một khoảng sân trường cũ, một khu tập thể rêu phong, một hè phố quán cóc.
Chừng nào người viết không ngừng lắng nghe Thủ đô chuyển mình, không ngại khám phá mọi khía cạnh đời sống, không để ký ức và hiện thực đánh mất nhau, chừng đó Hà Nội vẫn giữ vẹn nguyên mạch nguồn văn chương. Thành phố này, dù thay da đổi thịt, vẫn chờ những trang viết đủ sâu, đủ mới khắc họa trọn vẹn linh hồn Thủ đô.
(Còn nữa)