Yêu và nhớ quê hương từ những điều giản dị

Nguyễn Doãn Việt là nhà thơ có tình yêu đặc biệt với làng quê.

Đứng giữa biển lúa vàng với niềm hân hoan. Ảnh minh họa: Cafebiz.vn.

Đứng giữa biển lúa vàng với niềm hân hoan. Ảnh minh họa: Cafebiz.vn.

Anh đã nhiều lần tâm sự về “hành trình mê mải mang công chúng trở lại làng quê, dù đơn độc nhưng không bao giờ ngưng nghỉ”. Bài thơ “Nhớ mùa xưa” thêm một lần giúp ta hiểu hơn về hồn quê chứa chan nỗi nhớ thương của anh.

Nhớ thương mùa gặt

Nguyễn Doãn Việt

Nhớ mùa xưa

Nắng lấp lóa, lúa cúi đầu chín rục

Cánh đồng vàng như mâm mật mẹ se

Làng chộn rộn hình như đêm chẳng ngủ

Tiếng liềm khua, tất bật cõng mùa về.

Mùa quê ơi, cánh đồng vui như hội

Chú sẻ nâu chíu chít sợi rơm vàng

Mẹ cúi gặt thoảng nhìn về phía núi

Nắng trên đầu chợt thấy sợ mưa chan.

Ôi mùa quê những hạt tròn, hạt lép

Lắng sâu trong bao khấp khểnh vui, buồn

Câu hát gọi mùa xa ơi! da diết

Thương cánh đồng ngập nắng xối mưa tuôn

Ta ra đi xa bao mùa lúa chín

Vẫn ngát thơm hương gạo mới đầu mùa

Thương mẹ những tháng năm dài đằng đẵng

Gieo hạt vàng gặt muôn nỗi nắng mưa.

(Rút trong tập “Lửa truyền sinh”,
NXB Hội Nhà văn, 2022)

Nhà thơ đưa ta về với làng quê mùa lúa chín. Trước hết là màu vàng của lúa chín trong nắng vàng của quê hương. Có thể nói, trong ký ức của Nguyễn Doãn Việt, cánh đồng làng là hình ảnh gần gũi và đẹp quá đỗi:

“Nắng lấp lóa, lúa cúi đầu

chín rục

Cánh đồng vàng như mâm mật mẹ se”

Hình ảnh so sánh độc đáo nhưng đậm chất chân quê cho thấy sự quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả về vẻ đẹp của cánh đồng lúa. Có thể hình dung, dưới cái nắng rực rỡ của mùa, lúa khoe trọn vẻ căng tròn viên mãn. Những bông lúa chín cúi đầu dựa vào nhau giữa biển vàng dường như bỗng chốc thu lại trong tầm mắt, sánh vàng và đẹp ngọt ngào như mật.

Hay nói cách khác, đối với người nông dân, mùa lúa chính là mùa vàng, hạt lúa là hạt ngọc, là thành quả ngọt ngào sau những tháng ngày vất vả dày công vun xới. Bởi thế, có thể nói, mùa gặt chính là thời điểm đặc biệt trong năm của làng quê:

“Làng chộn rộn hình như đêm chẳng ngủ

Tiếng liềm khua, tất bật cõng mùa về”

“Mùa quê ơi cánh đồng vui như hội

Chú sẻ nâu chíu chít sợi rơm vàng”

Có thể nói “chộn rộn”, “tất bật”, “vui như hội” là những từ ngữ diễn tả đúng nhất không khí mùa gặt. Đó là sự rộn ràng của niềm vui ngày mùa, của bao công lao đã đến ngày thu thành quả; đó là sự nhịp nhàng của những bàn tay thoăn thoắt tay liềm tay hái; đó là sự hối hả của những bước chân người đi người về trên đồng ruộng, đường làng; đó là tiếng í ới gọi nhau dậy ra đồng từ lúc Mặt trời còn ngái ngủ.

Đó còn là thanh âm và màu sắc rất quê nhưng đậm chất thơ của những chú chim sẻ nâu đang sà xuống cạnh những sợi rơm vàng. Chỉ một câu thơ nhưng đủ đầy cả nhạc và họa. Làng quê mùa gặt thật bận, thật vội, thật nhọc nhằn nhưng cũng thật vui, thật hạnh phúc.

“Cõng mùa về” là ý thơ tuyệt đẹp. Ta thấy được trong đó có cái vất vả nhưng cũng có cả niềm vui. Ta thấy trong đó có cái nặng, cái oằn lưng, cái gắng sức nhưng cũng có cái thỏa thuê ngày thu hoạch. Ta cũng thấy trong đó cái ý nghĩa, tầm quan trọng của nghề nông.

Chính họ cho ta thấy vẻ đẹp lao động, vẻ đẹp của những con người không ngại vất vả, cực nhọc. Họ đổ giọt mồ hôi để hạt nảy mầm, để lúa lên bông, để hạt thóc mùa về thêm mẩy, để đưa cả mùa vàng về trên quê hương. Bởi thế, mùa gặt neo đậu trong trái tim những người con quê hương bao cảm xúc đặc biệt, để rồi khi đi xa, nỗi nhớ thương lại dào dạt ùa về:

“Ôi mùa quê những hạt tròn, hạt lép

Lắng sâu trong bao khấp khểnh vui, buồn

Câu hát gọi mùa xa ơi! da diết

Thương cánh đồng ngập nắng xối mưa tuôn”

Từ bao đời, khi cấy, khi cày, khi làm mùa, cha ông ta đã luôn “trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”. Nghề nông mà, được mất phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Có những mùa bội thu, có những mùa vàng, nhưng cũng không ít mùa mất trắng hoặc năng suất thấp. “Hạt tròn, hạt lép” là chuyện thường của nhà nông.

Cũng như vất vả, tần tảo, một nắng hai sương quá đỗi quen thuộc với họ. Bởi thế, trong tâm thức của mỗi người dân quê, cánh đồng, mùa gặt là nỗi niềm, là tâm tư của cả đời người. Hơn ai hết, chính họ hiểu những cực nhọc, những gian lao đã trải; chính họ hiểu hạt gạo là kết tinh của bao công sức.

Họ cũng nhận ra rằng, để có mùa gặt, họ phải bao ngày một nắng hai sương trên đồng ruộng. Hay nói cách khác, họ thương lắm, gắn bó lắm với từng khóm lúa, từng nhát cày, nhát cuốc trên đồng. Các từ ngữ “khấp khểnh vui, buồn”, “da diết”, “thương” diễn tả rất tinh tế nỗi lòng của người nông dân.

Chính vì vất vả, tảo tần nên đến ngày mùa, được thu hoạch thành quả lao động họ trân quý lắm. Có thể nói, dù được hay mất, dù thuận lợi hay khó khăn thì ngày mùa cũng sẽ là ngày vui. Bởi thế, dù đi xa, trong tâm khảm của họ, những vui buồn, những trăn trở về mùa lúa, mùa khoai vẫn luôn hiện hữu.

Xa quê, họ nhớ biết bao những lần lẫm chẫm trên đồng; họ nhớ những mùa vàng hạt tròn, hạt mẩy; họ cũng không thể quên những “nắng xối mưa tuôn”, những khấp khểnh lo âu vì những mùa hạt lép. Trong câu hát gọi mùa ấy, da diết nỗi lo âu, buồn tủi, nhưng cũng chan chứa biết bao nỗi nhớ, niềm thương, niềm vui hoan ca ngày thu hoạch.

Nỗi nhớ thương mẹ

Trong niềm chung ấy, nhà thơ dành tình cảm đặc biệt cho mẹ. Dĩ nhiên, là hình ảnh mẹ trong cảnh ngày mùa:

“Mẹ cúi gặt thoảng nhìn về phía núi

Nắng trên đầu chợt thấy sợ mưa chan”.

Câu thơ với ba động từ “cúi”, “gặt”, “nhìn” không chỉ miêu tả hành động mà còn diễn tả tâm tư của mẹ. Có thể nói, trong mỗi gia đình, mẹ là người không chỉ quán xuyến công việc mà còn để mắt, để tâm đến tất thảy mọi hoạt động một cách tinh tế, tỉ mẩn nhất. Trong việc đồng áng cũng thế, mẹ không chỉ là lao động chính của mùa gặt, mà còn là người hay lo, hay nghĩ.

Ở đây, mẹ vừa cắm cúi gặt từng bông lúa, lại vừa “thoảng nhìn về phía núi”. Chỉ là cái “thoảng nhìn” nhưng chất chứa cả nỗi niềm. Hay nói cách khác, nhà thơ nhìn được, cảm được trong niềm vui ngày mùa, mẹ vẫn không quên nghĩ suy. Tay mẹ thoăn thoắt tay liềm, tay hái, mà lòng mẹ vấn vương bao tâm tư.

Có thể, mẹ đang thấm thía về những vất vả của người nông dân. Cầm trên tay bông lúa nặng hạt, mẹ hiểu bao công sức, mồ hôi đã nhỏ xuống trên đồng ruộng. Gặt những bó lúa mang về, mẹ mang cả mùa về cho gia đình, cho những hạt cơm thơm dẻo trên mâm cơm của bao người.

Dĩ nhiên, mẹ cũng không quên ngẫm về những điều không thuận lợi của thời tiết, những bất thường do thiên tai. “Chợt thấy” nhưng ở đây cũng chính là những kinh nghiệm đúc kết cả một đời gắn bó với ruộng đồng, với công việc nhà nông của mẹ.

Mẹ hiểu rằng, nắng xối, mưa chan là việc thường ngày của trời, cũng là việc mà từ bao đời người nông dân phải hứng chịu. Thế nên, mùa về, dù được hay mất, vẫn là niềm vui của ngày thu hoạch. Cái đáng nói ở đây là, nhà thơ hiểu được những vui buồn của nghề nông, nên trân trọng và yêu thương biết bao người mẹ nông dân của mình:

“Ta ra đi xa bao mùa lúa chín

Vẫn ngát thơm hương gạo mới đầu mùa

Thương mẹ những tháng năm dài đằng đẳng

Gieo hạt vàng gặt muôn nỗi nắng mưa”.

Xa quê, xa cánh đồng làng, xa mùa lúa, mùa gặt lại càng yêu hơn, quý hơn, biết ơn hơn từng hạt thóc, từng khóm lúa, từng giọt mồ hôi mặn chát nhỏ xuống. Cái “ngát thơm hương gạo mới” ấy như mối tình đầu cũng là tình cuối, vấn vương mãi trong trái tim những người con quê hương.

Đi xa, họ mang theo cái sắc vàng của cánh đồng lúa chín, cũng mang theo mùi hương ngọt ngào của hạt cơm dẻo thơm. Đi xa, mang theo để luôn nhớ về. Nhớ từng hạt gạo kết tinh nắng mưa quê nhà, nhớ từng cánh đồng với bao tay cuốc, tay cày, tay liềm, tay hái. Nhớ mẹ, nhớ quê, nhớ một đời tảo tần nuôi ta lớn. Nhưng cũng là nhớ để trưởng thành.

Nhớ những vất vả “muôn nỗi nắng mưa” để ta có động lực phấn đấu. Thương mẹ “tháng năm dài đằng đẵng” để ta cố gắng học hành, rút ngắn thời gian đi tới thành công. Như thế, với tác giả Nguyễn Doãn Việt, làng quê càng vất vả, khó khăn thì mùa gặt thôn quê càng đẹp, những người dân quê càng đáng trân trọng. Điều đó, đồng nghĩa với nỗi nhớ quê, yêu quê càng dâng trào.

Nỗi nhớ, niềm thương của tác giả được chất chứa trong bài thơ với thể 8 chữ gồm 4 khổ đặc sắc. Tứ thơ không mới, nhưng nhà thơ Nguyễn Doãn Việt thổi vào đó cái trau chuốt, cái tỉ mẩn của một người quê với hành trình mê mải đưa công chúng trở lại làng quê.

Ta thấy được trong bài thơ cái chỉn chu với những từ ngữ chọn lọc, trau chuốt, các từ láy đặc sắc, nghệ thuật so sánh gần gũi, đậm chất chân quê. Mạch ý bài thơ được triển khai theo chiều nỗi nhớ, đi từ nỗi nhớ cánh đồng lúa chín đẹp mê mẩn, nhớ mùa gặt đầy niềm vui, đến những cảm nhận sâu sắc về những muôn nỗi nắng mưa ngập trên cánh đồng, và kết thúc bằng tình yêu thương, biết ơn và nỗi nhớ mênh mang về người mẹ tảo tần. Tất cả sự đặc sắc về nghệ thuật ấy làm nổi bật nội dung dung dị mà sâu sắc của bài thơ.

Đọc “Nhớ mùa xưa” ta không có cảm giác của cái xưa, cái hoài niệm của ký ức; mà dường như mọi thứ như của hôm nay. Người đọc như được cùng tác giả đứng giữa biển lúa vàng với niềm hân hoan, rồi “đêm chẳng ngủ” vì cái chộn rộn của mùa gặt, hay được thưởng thức cái dẻo thơm của hạt cơm mùa mới để hiểu hơn cái vất vả, cực nhọc của mẹ cha, của những người nông dân quanh năm với đồng ruộng. Tình yêu ruộng đồng, yêu làng, yêu quê hương, đất nước của mỗi chúng ta bắt đầu, hun đúc từ những tình cảm dung dị như thế!

Nguyễn Thị Hà (Giáo viên Trường THCS Sơn Kim, Hương Sơn, Hà Tĩnh)

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/yeu-va-nho-que-huong-tu-nhung-dieu-gian-di-post734123.html