Vàng lậu không còn đất sống

Ngày 28/5, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có buổi làm việc với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương. Một trong những nội dung 'nóng' nhất là, Tổng Bí thư yêu cầu xóa bỏ thế độc quyền Nhà nước trong sản xuất vàng miếng, cho phép nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia, nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, đa dạng nguồn cung và ổn định giá.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Chỉ đạo này của Tổng Bí thư được dư luận hết sức hoan nghênh. Vậy là, sau 13 năm, Nghị định 24/2012/NĐ-CP được thực hiện đã có quá nhiều bất cập. Việc áp dụng thế độc quyền vàng miếng gây hệ lụy không nhỏ cho nền kinh tế, nhất là tình trạng buôn lậu vàng, chảy máu ngoại tệ ra nước ngoài. Giờ đây thị trường vàng đang “nín thở” khi thế độc quyền Nhà nước về vàng miếng bị phá vỡ.

Tất nhiên chính sách nào ra đời cũng có lý do của nó. Vào thời điểm năm 2012, Nhà nước quyết định độc quyền sản xuất vàng miếng, và chỉ sử dụng thương hiệu vàng miếng SJC (Saigon Jewelry Company) làm thương hiệu vàng miếng quốc gia là vì các lý do chủ yếu sau:

Một là, nhằm ổn định thị trường vàng và tỷ giá ngoại tệ. Trước đó thị trường vàng ở Việt Nam rất biến động, do có hàng chục thương hiệu vàng miếng khác nhau, như Phượng Hoàng của Công ty PNJ, vàng miếng của Công ty Vàng bạc đá quý Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SBJ), vàng miếng thương hiệu ACB của Ngân hàng TMCP Á Châu, vàng miếng AAA của Agribank... Có điều hoạt động mua bán vàng miếng không được kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới; gây áp lực lên thị trường ngoại tệ (do nhập lậu vàng, chuyển tiền ra nước ngoài mua vàng); tạo ra tâm lý “vàng hóa” nền kinh tế, khiến người dân và doanh nghiệp trữ vàng thay vì đầu tư vào sản xuất.

Hai là, mục đích khi ban hành Nghị định là nhằm tăng cường vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước, trao quyền quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh vàng miếng; cấp phép cho các tổ chức đủ điều kiện mua bán vàng miếng; trực tiếp tổ chức đấu thầu vàng để can thiệp thị trường khi cần thiết. Nhờ đó, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát được nguồn cung vàng miếng, điều tiết giá cả, và hạn chế đầu cơ, thao túng thị trường.

Ba là, Ngân hàng Nhà nước chọn SJC làm thương hiệu vàng miếng duy nhất vì Công ty này là thương hiệu lớn nhất, chiếm khoảng 90% thị phần vàng miếng trước đó. SIC có hệ thống sản xuất, kiểm định, phân phối vàng miếng rộng khắp, được khách hàng tin tưởng về chất lượng và uy tín. Việc thống nhất một thương hiệu giúp chuẩn hóa vàng miếng trên thị trường sẽ dễ dàng hơn trong quản lý và kiểm soát lưu thông, đồng thời giảm tình trạng “vàng hóa” và tăng niềm tin vào tiền đồng.

Thế nhưng có những ưu điểm kéo dài của ngày hôm qua có thể trở thành lực cản, thành khuyết điểm của ngày hôm nay. Đến thời điểm này (5/2025) tình hình hiện tại cho thấy, việc độc quyền vàng miếng gây ra nhiều tác hại, cần phải thay đổi cho phù hợp.

Việc độc quyền vàng miếng, cụ thể là chỉ sử dụng SJC làm “vàng miếng quốc gia” đang bộc lộ nhiều vấn đề bức xúc, tạo có áp lực lớn từ dư luận, chuyên gia, và thị trường yêu cầu xem xét lại chính sách này.

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, cần bãi bỏ độc quyền vàng. Vì sao vậy? Vì rằng, việc độc quyền kim loại quý này gây nhiều bất lợi, dễ thấy nhất là nó tạo ra chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới rất lớn. Trong năm 2024 và 5 tháng đầu năm nay, chênh lệch có lúc lên tới 20 triệu đồng/lượng giữa giá vàng SJC trong nước và giá vàng thế giới (ngày 31/5/2025, chênh lệch từ 14,5-15 triệu đồng).

Mức chênh lệch này làm thiệt hại cho người dân, đặc biệt là những người mua vàng làm tài sản tích trữ. Nó gây nên tình trạng mất công bằng, do giá vàng trong nước không còn phản ánh đúng giá trị thực tế toàn cầu. SJC từng là doanh nghiệp nhà nước nhưng hiện đã cổ phần hóa, nhà nước chỉ giữ một phần nhỏ. Thị trường vàng đã xảy ra hiện tượng “sốt cao” vào năm 2024. Người dân xếp hàng ngày này qua ngày khác để chờ mua vàng, còn các công ty vàng phải giới hạn số vàng bán cho mỗi người ở mức 1 lượng vàng miếng hoặc 1 đến 2 chỉ vàng nhẫn vì không đủ nguồn cung.

Nếu duy trì mãi tình trạng độc quyền sẽ cản trở cạnh tranh, dẫn đến méo mó thị trường. Chỉ có một loại vàng miếng được chấp nhận lưu hành chính thức khiến người dân không có lựa chọn nào khác. Trong khi đó, thị trường vàng đã phát triển, người dân hiểu biết thấu đáo hơn, cần công khai, minh bạch, và vận hành theo kinh tế thị trường, không thể duy trì mãi mô hình “quản lý hành chính cứng”.

Sắp tới, khi chúng ta chấm dứt độc quyền vàng miếng sẽ mang lại những kết quả tích cực. Cụ thể là, giảm chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế; tăng cạnh tranh, đa dạng hóa thương hiệu vàng miếng; nâng cao chất lượng dịch vụ, minh bạch thị trường. Không những thế còn tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp trong nước phát triển, thúc đẩy ngành vàng, trang sức, chế tác, góp phần ổn định tài chính tiền tệ bền vững hơn.

Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế đề xuất, cần thực hiện theo lộ trình và có kiểm soát. Không nên “xóa bỏ” đột ngột dễ gây sốc thị trường, mà cần xóa bỏ thế độc quyền Nhà nước về thương hiệu vàng miếng một cách có kiểm soát. Cần xây dựng tiêu chuẩn vàng miếng quốc gia (không phải thương hiệu cá nhân). Cho phép nhiều đơn vị đủ điều kiện sản xuất vàng miếng, dưới sự kiểm định chất lượng của Nhà nước.

Chính sách độc quyền vàng miếng tuy phù hợp trong giai đoạn bất ổn, nhưng hiện tại không còn phù hợp, gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực. Khi Nhà nước quyết tâm gỡ nút thắt trên thị trường vàng thì tâm lý người dân sẽ vững vàng hơn, lúc đó họ không còn “đánh bạc một cửa” chỉ lo bỏ vốn vào vàng, tình trạng vàng lậu chui lủi sẽ không còn đất sống.

Hải Đường

Nguồn PetroTimes: https://petrotimes.vn/vang-lau-khong-con-dat-song-728244.html