Thích ứng nhờ linh hoạt chuyển đổi

Từng bước, chính quyền các địa phương khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã cùng bà con nông dân mở thêm những hướng đi, nhằm tiếp tục hành trình phát triển bền vững.

Hồ chứa nước ngọt Kênh Lấp dung tích 800.000 m3 phục vụ cho hơn 200 nghìn hộ dân tại xã Phước Ngãi (tỉnh Vĩnh Long) và các địa phương lân cận. (Ảnh HOÀNG TRUNG)

Hồ chứa nước ngọt Kênh Lấp dung tích 800.000 m3 phục vụ cho hơn 200 nghìn hộ dân tại xã Phước Ngãi (tỉnh Vĩnh Long) và các địa phương lân cận. (Ảnh HOÀNG TRUNG)

Mặn đắng những mùa khô

“Cánh đồng gia đình tôi sản xuất cách biển hơn 40 km, chưa bao giờ bị nước biển xâm nhập tới nội đồng, nên bà con an tâm sản xuất ba vụ lúa mỗi năm. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến nay, nước mặn liên tục tấn công, làm bà con chịu thiệt hại nặng nề do lúa chết”, vừa gạt mồ hôi, ông Phạm Văn Nhựt, ngụ xã Lương Hòa (tỉnh Vĩnh Long) vừa trải lòng.

Những năm gần đây, tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, tần suất hạn mặn xảy ra dày hơn, gây thiệt hại rất lớn. Năm 2015-2016, thiệt hại cho tổng diện tích lúa là khoảng 405.000 ha, hoa màu 8.100 ha và 28.500 ha cây ăn quả. Năm 2019-2020, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng đến 10/13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (theo các đơn vị hành chính cũ), thời gian xâm nhập mặn kéo dài gần sáu tháng. Tổng diện tích lúa thiệt hại 59.624 ha.

Ông Nhựt, người có 3,5 ha đất canh tác, còn nhớ rõ, mùa khô năm 2016 và 2020 hạn hán, xâm nhập mặn làm thiệt hại hàng trăm ha lúa, hoa màu, cây ăn quả, thủy sản... thiệt hại lên tới hàng nghìn tỷ đồng.

Không còn cách nào khác, cũng như nhiều bà con, người nông dân chân chất ấy đã phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, giảm từ ba vụ lúa/năm sang hai vụ lúa/năm để né mặn. “Một số hộ khác cũng chuyển từ trồng cây lúa sang trồng cây dừa có khả năng chịu hạn, mặn tốt, để thích ứng với điều kiện thời tiết ngày càng cực đoan”, ông Nhựt cho biết.

Không chỉ vậy, hầu như nhà nào tại khu vực gần biển cũng có dụng cụ trữ nước mưa, nước ngọt. Mấy năm nay, gia đình ông Lê Văn Siêng, ngụ tại phường Phú Khương (tỉnh Vĩnh Long) luôn tích trữ khoảng 20 m3 nước ngọt ngay trong mùa mưa. Ông Siêng ngước nhìn trời: “Bây giờ, những cánh đồng, vườn cây ăn quả cách biển gần 100 km cũng bị ảnh hưởng...”.

Theo Cục quản lý Đê điều và Phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), thời gian qua, hệ thống đê biển đã được củng cố, nâng cấp theo Chương trình củng cố, nâng cấp đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang. Tuy nhiên, nhiều đoạn chưa đủ cao trình theo mức thiết kế, chất lượng thân đê còn hạn chế; rừng chắn sóng trước đê bị sạt lở nhiều, một số đoạn không bảo đảm giảm sóng bảo vệ đê. Một số hệ thống kiểm soát mặn chưa khép kín như: Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre, Nam Mang Thít, Bảo Định… nên hiệu quả kiểm soát mặn chưa cao. Ngoài ra, hệ thống cấp nước sinh hoạt tập trung còn thiếu; hiện vẫn còn khoảng 975 nghìn hộ gia đình tại khu vực ven biển chưa được tiếp cận với cấp nước tập trung; trong đó có khoảng 53 nghìn hộ sống phân tán, khó có thể cấp nước tập trung.

Chắt chiu từng giọt ngọt

“Từ năm 2016, Tỉnh ủy Bến Tre (cũ) đã phát động phong trào “Đồng Khởi” trữ nước mưa, nước ngọt nhằm vận động mỗi hộ gia đình, tổ chức, doanh nghiệp chủ động trữ nước ngọt để phục vụ sinh hoạt, sản xuất trong mùa hạn mặn. Hiện tại, khu vực này đã có gần 99% hộ dân đủ điều kiện, dụng cụ trữ nước mưa, nước ngọt; người dân chủ động trữ bằng nhiều hình thức, phương tiện như: ống hồ, lu, túi chứa nước, trải bạt trữ nước trong ao mương, đắp đập cục bộ… góp phần giảm đáng kể tình trạng thiếu nước ngọt trong mùa khô”, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Vĩnh Long Bùi Văn Thắm cho biết.

Các dự án thủy lợi trọng điểm như Cống Tân Phú, Cống Bến Rớ, hệ thống đê bao ven sông Tiền, ven sông Hàm Luông, đê bao ven sông Cổ Chiên đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần bảo vệ hàng trăm nghìn ha diện tích cây trồng, đồng thời phục vụ nước sinh hoạt cho người dân. Từ đó, bắt đầu hình thành các túi trữ nước ngọt trên địa bàn. Thí dụ, khoảng 1.300 triệu m3 nước ngọt tại khu vực thuộc tỉnh Bến Tre (cũ), đóng vai trò then chốt trong việc tạo nguồn cho các nhà máy cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất.

Một địa phương khác, tỉnh An Giang, cũng đã và đang tích cực kiểm tra, rà soát hệ thống thủy lợi ven biển và vùng sản xuất trọng điểm Tứ giác Long Xuyên để khắc phục hư hỏng, bảo đảm vận hành điều tiết nguồn nước. Trước đó, tỉnh An Giang đã phối hợp các đơn vị vận hành các công trình thủy lợi như Cống Cái Lớn, Cống Cái Bé, Xẻo Rô... theo phương thức linh hoạt hơn, nhằm kiểm soát mặn và trữ ngọt. Đến nay tỉnh cũng đã hoàn thành đầu 18 cống ngăn mặn trên tuyến ven biển.

Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai xây dựng công trình kết nối, chuyển nước giữa các hệ thống thủy lợi Bảo Định - Gò Công - Tân Trụ (Đồng Tháp, Tây Ninh); các công trình điều tiết, chuyển nước cho các vùng phía nam Quốc lộ 1, bán đảo Cà Mau để tăng cường khả năng chuyển nước liên vùng, nội vùng phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Đồng thời, xây dựng, củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển, xây dựng các hồ trữ nước ngọt phân tán để chủ động cấp nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất.

Mở những con đường mới về phía biển

Với hơn 200 km tiếp giáp biển, có 143 hòn đảo, trong đó có 43 hòn đảo có dân cư sinh sống, cùng 4.539 ha rừng phòng hộ ven biển, vùng biển rộng hơn 63.200 km2, tỉnh An Giang sở hữu tiềm năng phát triển kinh tế biển đa dạng. Tỉnh xác định: Kinh tế biển, trong đó nghề nuôi biển, sẽ là hướng phát triển chủ lực trong thời gian tới... Đây cũng là giải pháp tái cấu trúc ngành thủy sản, nhằm thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang Lê Hữu Toàn cho biết, tỉnh đã phê duyệt Đề án nuôi biển theo hướng bền vững trên địa bàn đến năm 2030. Theo đó, tỉnh An Giang đặt mục tiêu đến năm 2030 phát triển 14 nghìn lồng nuôi biển, trong đó có 6.600 lồng nuôi công nghệ cao. Hiện nay, đã có năm doanh nghiệp đang được tỉnh chấp thuận chủ trương thực hiện dự án nuôi biển quy mô lớn, tổng diện tích gần ba nghìn héc-ta, với vốn đầu tư gần 1.200 tỷ đồng, sản lượng dự kiến đạt hơn 73 nghìn tấn.

Đến nay, tỉnh đã giao khoán cho 1.905 hộ dân để thực hiện trồng rừng và khai thác diện tích mặt nước nuôi thủy sản. Từ năm 2011, ông Nguyễn Hoàng Lương, ấp Xẻo Lá A, xã Tân Thạnh được giao khoán 3,5 ha đất rừng phòng hộ để trồng cây mắm, cây đước. Tận dụng diện tích mặt nước, ông nuôi tôm, cua và thả nuôi sò huyết giống dưới tán rừng. Hằng năm, từ 3,5 ha nuôi sò huyết, sản lượng 6-7 tấn, sau khi trừ chi phí, ông thu về khoảng 300 triệu đồng/năm. Ông Lê Hoàng Quân (ấp Xẻo Lá A) nhận xét: Sò huyết dễ nuôi, ít tốn công chăm sóc, lợi nhuận khá cao. Hiện tại ông nuôi 2,7 ha sò huyết, trung bình cho sản lượng trên ba tấn, lợi nhuận thu về trên 200 triệu đồng/năm.

Năm 2023, anh Hồ Văn Trung (xã Kiên Lương, tỉnh An Giang) đầu tư mới 10 bè bằng thanh nhựa composite thay bè gỗ, với 80 lồng nuôi cá bớp. Nhờ tiết kiệm từ việc đánh bắt và thu mua cá tạp làm thức ăn cho cá, anh xuất bán trung bình 20-25 tấn/năm cá bớp, khoảng 4-5 tỷ đồng/năm, lợi nhuận sau khi trừ chi phí là 2-2,5 tỷ đồng/năm. Tháng 4/2025 vừa qua, anh Trung thu hoạch 40 lồng cá bớp, sản lượng hơn 15 tấn, lợi nhuận thu về gần hai tỷ đồng. Hiện, ngoài nuôi cá lồng bè, anh Trung đầu tư hàng chục nghìn dây nuôi vẹm xanh, đã có nhiều tín hiệu tích cực.

Nụ cười mùa thu hoạch của những người dân làng biển như anh Trung, chính là sự xác nhận tính đúng đắn của một hướng đi.

QUỐC TRINH - HOÀNG TRUNG

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/thich-ung-nho-linh-hoat-chuyen-doi-post902683.html