Thay đổi thời gian phổ biến một số thông tin thống kê quan trọng

Theo Nghị định 62/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/8/2024, thời gian phổ biến Báo cáo kinh tế - xã hội tháng, quý I, 6 tháng, 9 tháng và năm của Tổng cục Thống kê sẽ vào ngày 6 của tháng kế tiếp sau kỳ báo cáo.

Đúng bản chất của một kỳ báo cáo

Mới đây, Văn phòng Chính phủ có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong đó có nội dung thay đổi thời gian phổ biến một số thông tin thống kê quan trọng của cơ quan thống kê trung ương theo Nghị định số 62/2024/NĐ-CP.

Có hiệu lực từ ngày 1/8/2024, Nghị định 62/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều, phụ lục của Nghị định số 94/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thống kê và Nghị định số 94/2022/NĐ-CP ngày 7/11/2022 của Chính phủ quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và quy trình biên soạn chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước, chỉ tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Nghị định 62/2024/NĐ-CP bảo đảm cho việc thu thập, biên soạn thông tin thống kê phản ánh chính xác, đầy đủ, đúng bản chất của một kỳ báo cáo, đặc biệt là kỳ báo cáo tháng phục vụ kịp thời cho các cơ quan Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp trong quản lý, điều hành.

Theo đó, Chính phủ quy định thay đổi lịch phổ biến một số thông tin thống kê quan trọng của cơ quan thống kê Trung ương như sau: (i) Số liệu chính thức chỉ số giá tiêu dùng (CPI) phổ biến vào ngày 06 của tháng kế tiếp sau tháng báo cáo, khác với quy định hiện hành là “ngày 29 hàng tháng, riêng tháng Hai là ngày cuối tháng”; (ii) Số liệu ước tính tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ phổ biến vào ngày 06 của tháng kế tiếp sau quý báo cáo; (iii) Số liệu sơ bộ tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ phổ biến vào ngày 06 của tháng đầu tiên của quý thứ hai sau quý báo cáo; (iv) Số liệu ước tính tỷ lệ thất nghiệp phổ biến vào ngày 06 của tháng kế tiếp sau quý báo cáo; (v) Số liệu sơ bộ tỷ lệ thất nghiệp phổ biến vào ngày 06 của tháng đầu tiên của quý thứ hai sau quý báo cáo; (vi) Báo cáo kinh tế - xã hội tháng, quý I, quý II và 6 tháng, quý III và 9 tháng, quý IV và cả năm phổ biến vào ngày 06 của tháng kế tiếp sau kỳ báo cáo.

Cũng theo Nghị định 62, thời gian công bố số liệu GDP có sự thay đổi. Trong đó, (i) Số liệu ước tính quý I; sơ bộ quý IV năm trước năm báo cáo: Công bố ngày 06 tháng 4 năm báo cáo; (ii) Số liệu ước tính quý II, 6 tháng và ước tính cả năm lần 1; sơ bộ quý I: Công bố ngày 06 tháng 7 năm báo cáo; (iii) Số liệu ước tính quý III và 9 tháng; sơ bộ quý II và 6 tháng: Công bố ngày 06 tháng 10 năm báo cáo; (iv) Số liệu ước tính quý IV và ước tính cả năm lần 2, sơ bộ quý III và 9 tháng: Công bố ngày 06 tháng 01 năm kế tiếp sau năm báo cáo; (v) Số liệu sơ bộ cả năm: Công bố ngày 06 tháng 10 năm kế tiếp sau năm báo cáo; (vi) Số liệu chính thức cả năm và theo quý của năm báo cáo: Công bố ngày 06 tháng 10 năm thứ hai kế tiếp sau năm báo cáo.

Đối với số liệu GRDP được công bố như sau: (i) Số liệu ước tính quý I; sơ bộ quý IV năm trước năm báo cáo: Công bố ngày 01 tháng 4 năm báo cáo; (ii) Số liệu ước tính quý II, 6 tháng và ước tính cả năm lần 1; sơ bộ quý I: Công bố ngày 01 tháng 7 năm báo cáo; (iii) Số liệu ước tính quý III và 9 tháng; sơ bộ quý II và 6 tháng: Công bố ngày 01 tháng 10 năm báo cáo; (iv) Số liệu ước tính quý IV và ước tính cả năm lần 2; sơ bộ quý III và 9 tháng: Công bố ngày 01 tháng 12 năm báo cáo; (v) Số liệu sơ bộ cả năm: Công bố ngày 01 tháng 10 năm kế tiếp sau năm báo cáo; (vi) Số liệu chính thức cả năm và theo quý của năm báo cáo: Công bố ngày 01 tháng 10 năm thứ hai kế tiếp sau năm báo cáo.

Cùng với đó, hệ biểu thu thập thông tin phục vụ biên soạn GDP, GRDP cũng được sửa đổi: Giữ nguyên số lượng biểu theo quy định tại Nghị định số 94, sửa ngày nhận báo cáo, hướng dẫn ghi biểu và một số nội dung liên quan của các biểu mẫu để bảo đảm thời gian biên soạn và công bố số liệu GDP và GRDP.

Cập nhật, đầy đủ hơn

Theo ông Nguyễn Đình Khuyến, Vụ trưởng Vụ Phương pháp chế độ và Quản lý chất lượng thống kê, Tổng cục Thống kê, công tác thu thập, biên soạn, công bố, phổ biến thông tin thống kê đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong quá trình thực hiện Nghị định số 94/2016 và Nghị định số 94/2022.

Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện “thời gian phổ biến Báo cáo kinh tế - xã hội tháng, quý I, 6 tháng, 9 tháng và năm là ngày 29 của tháng báo cáo, riêng tháng Hai là ngày cuối tháng”đã bộc lộ những bất cập như: Vì thu thập thông tin sớm nên các số liệu chủ yếu là ước tính, dẫn đến kết quả có độ chính xác chưa cao và chưa phản ánh đúng thực tế hoạt động của đơn vị cung cấp thông tin trong tháng; Với quy định công bố vào ngày 29 hằng tháng dẫn đến xung đột, dễ gây hiểu nhầm cho người sử dụng thông tin thống kê đối với một số chỉ tiêu thống kê kinh tế tổng hợp do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) công bố và do bộ, ngành có liên quan công bố vì thời điểm công bố, thời kỳ số liệu khác nhau; Đối với thông tin, dữ liệu hành chính tổng hợp từ báo cáo của các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh, các báo cáo thường gửi muộn hơn so với thời gian yêu cầu của cơ quan thống kê...

Do vậy, thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) đã thực hiện trình tự đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định 94 quy định “thời gian phổ biến Báo cáo kinh tế - xã hội tháng, quý I, 6 tháng, 9 tháng và năm là ngày 29 của tháng báo cáo, riêng tháng Hai là ngày cuối tháng” thành “ngày 06 của tháng tiếp theo sau kỳ báo cáo”.

Việc quy định thời gian công bố, phổ biến Báo cáo kinh tế - xã hội tháng, quý I, 6 tháng, 9 tháng và năm vào “ngày 06 của tháng tiếp theo sau kỳ báo cáo” là cơ sở bảo đảm cho việc thu thập, biên soạn thông tin thống kê phản ánh chính xác, đầy đủ, đúng bản chất của một kỳ báo cáo. Những thông tin thống kê này phục vụ chính xác, kịp thời các cơ quan Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp trong quản lý, điều hành.

Dưới góc độ nghiệp vụ thống kê, việc quy định thời gian công bố, phổ biến Báo cáo kinh tế - xã hội tháng, quý I, 6 tháng, 9 tháng và năm là “ngày 06 của tháng tiếp theo sau kỳ báo cáo” có một số ưu điểm, bao gồm: Thông tin, số liệu thu thập từ đối tượng cung cấp thông tin phản ánh đầy đủ diễn biến sản xuất kinh doanh trong kỳ báo cáo, góp phần tăng tính chính xác của số liệu, phản ánh sát hơn tình hình thực tế; Nguồn thông tin phục vụ biên soạn một số chỉ tiêu tổng hợp như GDP, GRDP được cập nhật, đầy đủ hơn; Có đủ thời gian để kiểm tra, tổng hợp dữ liệu, biên soạn các báo cáo chuyên ngành giúp nâng cao chất lượng báo cáo; Số liệu tổng hợp có độ tin cậy cao hơn, phản ánh sát hơn với diễn biến tình hình kinh tế - xã hội cả nước…

Ngoài ra, quy định như vậy còn là cơ sở để thống nhất thông tin, số liệu trong công bố, phổ biến một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) và bộ, ngành biên soạn, công bố, đặc biệt là các chỉ tiêu liên quan đến thu, chi ngân sách, xuất nhập khẩu hàng hóa…

Như vậy thực hiện Nghị định 62/2024/NĐ-CP, từ ngày 1/8/2024 Tổng cục Thống kê sẽ thay đổi thời gian phổ biến Báo cáo kinh tế - xã hội tháng, quý I, 6 tháng, 9 tháng và năm từ “ngày 29 của tháng báo cáo (riêng tháng Hai là ngày cuối tháng)” thành “ngày 06 của tháng kế tiếp sau kỳ báo cáo”.

Lê Đỗ

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/thay-doi-thoi-gian-pho-bien-mot-so-thong-tin-thong-ke-quan-trong-152920.html