Sửa đổi Luật Ngân sách: ĐBQH lo ngại tăng trần nợ vay sẽ phân tán nguồn lực quốc gia
Tại phiên thảo luận sáng 25/5, kỳ họp Quốc hội thứ 9, về dự thảo sửa đổi Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ sự đồng tình với đề xuất của Chính phủ, song cũng kiến nghị cần cân nhắc thấu đáo việc luật hóa nâng trần nợ vay cho tất cả các địa phương.
Tại phiên thảo luận sáng 25/5, kỳ họp Quốc hội thứ 9, về dự thảo sửa đổi Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN), nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ sự đồng tình với đề xuất của Chính phủ, song cũng kiến nghị cần cân nhắc thấu đáo việc luật hóa nâng trần nợ vay cho tất cả các địa phương.
Tiền trong két không giải ngân được nhưng nợ vẫn phải trả lãi
Đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Giang) cho rằng, việc luật hóa nâng trần nợ vay cho tất cả các địa phương là một đề xuất cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi, thực tế cho thấy, một số địa phương đã được thí điểm cơ chế đặc thù cho phép tăng dư nợ vay để đầu tư cho các dự án trọng điểm. Tuy nhiên, việc mở rộng cơ chế này ra toàn quốc chưa có tổng kết, đánh giá đầy đủ về hiệu quả. Và nếu mở rộng quá mức, nguồn lực quốc gia có thể bị phân tán vào các dự án nhỏ, làm giảm khả năng tập trung đầu tư cho các công trình trọng điểm cấp quốc gia.
Đại biểu cảnh báo việc phân bổ dàn trải cho các dự án ngoài kế hoạch, chưa có sự chuẩn bị kỹ khiến “tiền trong két nhưng không giải ngân được, gây tồn ngân quỹ, trong khi nợ vay vẫn phải trả lãi”. Vì thế, đề nghị cần ưu tiên đầu tư vào các dự án đang triển khai, đủ điều kiện hấp thu vốn, tránh phân bổ tràn lan dẫn đến lãng phí.

Đại biểu Trần Văn Lâm (Bắc Giang)
Cùng quan điểm, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) bày tỏ sự đồng tình với mức trần vay cao đối với các địa phương có tiềm lực tài chính mạnh như TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng…, nhưng ông cảnh báo về rủi ro khi áp dụng mức trần cao đồng loạt cho các địa phương còn khó khăn. Phải có giám sát chặt chẽ, nếu không Trung ương sẽ phải gánh nợ thay, làm tăng trần nợ công quốc gia.
Về đề xuất nâng trần dự phòng ngân sách lên 5%, đại biểu Phạm Văn Hòa không đồng tình, cho rằng mức 2-4% như hiện hành là hợp lý. Nhiều năm ngân sách còn dư dự phòng phải chuyển sang năm sau, trong khi có nơi thiếu chi nhưng không được cấp, gây lãng phí nguồn lực. Ông cũng không đồng tình việc cho phép ứng trước ngân sách để chi thường xuyên cho năm sau bởi ứng trước như vậy dễ dẫn đến lạm chi, sai nguyên tắc quản lý ngân sách.
Chính phủ có quyền điều chỉnh trong phạm vi nhất định
Liên quan đến thẩm quyền điều chỉnh dự toán ngân sách, Chính phủ đề xuất được mở rộng quyền chủ động điều chỉnh dự toán NSNN trong một số trường hợp vốn đang thuộc thẩm quyền của Quốc hội, đại biểu Phạm Văn Hòa khẳng định, Quốc hội cần giữ quyền quyết định ngân sách như Hiến pháp đã quy định. Không nên chuyển quyền quá nhiều cho Chính phủ, dễ làm mờ ranh giới giám sát và quyết định.

Đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp)
Trong khi đó, đại biểu Trần Văn Lâm cho rằng Mục tiêu là nhằm tăng tính linh hoạt trong điều hành ngân sách, kịp thời ứng phó với các biến động. Tuy nhiên, nhiều ý kiến trong cơ quan thẩm tra không đồng tình vì e ngại làm suy giảm vai trò giám sát, quyết định ngân sách của Quốc hội. Đây là vấn đề cần được dung hòa: nên cho phép Chính phủ có quyền điều chỉnh trong phạm vi nhất định, với các tiêu chí rõ ràng, có kiểm soát chặt chẽ, nhằm tránh tình trạng phải trình Quốc hội ngay cả khi điều chỉnh các khoản chi nhỏ, gây chậm trễ trong điều hành.
Về phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách, dự thảo đề xuất điều chỉnh lại đối tượng được hưởng thuế giá trị gia tăng (VAT) từ hàng hóa nhập khẩu, đưa về cơ chế điều tiết chung thay vì để Trung ương hưởng 100% như hiện nay. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng VAT là loại thuế gián thu, người tiêu dùng thực sự là người nộp thuế. Trong khi hàng hóa nhập khẩu chủ yếu được tiêu thụ ở các địa phương nội địa, thì việc để địa phương có cửa khẩu được hưởng toàn bộ khoản thu này là chưa thực sự hợp lý và công bằng. Do đó, cần có cơ chế phân bổ lại hợp lý hơn. Trong bối cảnh nhu cầu đầu tư phát triển ngày càng lớn, nguồn lực ngân sách ngày càng hạn chế, việc sửa đổi Luật NSNN cần đảm bảo sự cân đối giữa phân cấp và kiểm soát, giữa linh hoạt điều hành và kỷ cương tài chính. Mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực công, phục vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế - xã hội và ổn định vĩ mô.