Sự khác nhau giữa tuổi Hạ và tuổi Đạo?

Vấn đề tuổi đạo, theo thiển ý của chúng tôi tra cứu thì chưa tìm thấy trong kinh luật đề cập đến khái niệm đạo lạp và hiện tồn tại nhiều quan niệm khác nhau. Có quan niệm cho rằng tuổi đạo chính là tuổi hạ.

HỎI: Xin cho biết sự khác nhau giữa tuổi Hạ và tuổi Đạo? Khi tăng, ni viên tịch thờ y bát, thờ cả ba y hay là chỉ một y nào đó?

Đáp: Tuổi hạ thường được gọi hạ lạp hay pháp lạp, đôi khi có chỗ còn gọi Tăng lạp, nói một cách dễ hiểu là tuổi tu của một vị Tỷ kheo hoặc Tỷ kheo ni.

Tuổi hạ được tính từ khi thọ Đại giới, sau mỗi mùa An cư hàng năm, kết thúc bằng lễ Tự tứ thân tâm thanh tịnh thì vị Tỷ kheo được một tuổi hạ.

Căn cứ vào tuổi hạ cao thấp để xác lập và phân định vị trí lớn hay nhỏ của vị Tỷ kheo trong Tăng đoàn.

Truyền thống Phật giáo Bắc tông khai hạ vào ngày 15 tháng 4 Âm lịch (ÂL), mãn hạ vào ngày 15 tháng 7 ÂL, nên ngày 16 tháng 7 ÂL hàng năm được xem là ngày đầu năm của người xuất gia.

Theo Tăng sử lược, quyển hạ, thì “Trong kinh luật coi ngày 16 tháng 7 ÂL là ngày đầu năm sinh ra Ngũ phần Pháp thân của Tỷ kheo. Do vậy, Tỷ kheo là hạng xuất gia không nên tính tuổi theo thế tục”.

Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa, Nguồn: St

Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa, Nguồn: St

Vấn đề tuổi đạo, theo thiển ý của chúng tôi tra cứu thì chưa tìm thấy trong kinh luật đề cập đến khái niệm đạo lạp và hiện tồn tại nhiều quan niệm khác nhau. Có quan niệm cho rằng tuổi đạo chính là tuổi hạ. Tuy nhiên, đa phần đều nghiêng về quan niệm tuổi đạo khác với tuổi hạ, vì tuổi đạo được tính từ lúc xuất gia, nhập đạo. Bởi lẽ, một vị phát tâm ly tục xuất gia phải trải qua một thời gian tu học khá dài mới có tuổi hạ. Mặt khác, trong quá trình tu học, vì nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau cho nên không phải vị Tỷ kheo nào cũng thực hiện trọn vẹn an cư.

Nếu không viên mãn pháp An cư, tất nhiên năm ấy vị Tỷ kheo không có tuổi hạ nhưng “thâm niên” trong đạo vẫn có. Nếu tuổi đạo được tính theo cách trên thì tuổi đạo bao giờ cũng lớn hơn tuổi hạ.

Khi tăng, ni viên tịch thờ y bát vì y bát là linh hồn, biểu tượng xuất thế, vật dụng quan trọng nhất, là vật "bất ly thân” của người xuất gia. Khi thọ giới, điều kiện bắt buộc đầu tiên là phải đầy đủ y bát. Theo Phật giáo Bắc ày tông, nhất là Thiền tông, thì y bát là tín vật để phó pháp truyền thừa tâm ấn.

Cứ Truyền đăng lục, quyển 1: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn đọc xong bài kệ...rồi bảo Ca Diếp: Nay Ta đem y bát này trao lại cho ngươi. Ngươi hãy kể thừa truyền nối”. Y bát này được truyền từ thời Phật đến Lục tổ Huệ Năng mới chấm dứt. Việc thờ y bát của các bậc Thầy hiện nay có nguồn gốc từ sự truyền thừa y bát của Phật Thích Ca nhằm tôn kính và thể hiện sự tiếp nhận phó pháp của Thầy Tổ.

Thờ y của Thầy Tổ thì chỉ thờ y Tăng già lê, vì y này còn được gọi là Đại y, Tổ y và Pháp y là biểu tượng truyền đăng, Tổ Tổ tương truyền, Sư Sư tương thọ.

Trích sách Phật pháp bách vấn, tác giả: Hiền Ngu – Quảng Tánh

Nguồn Tạp chí Phật học: https://tapchinghiencuuphathoc.vn/su-khac-nhau-giua-tuoi-ha-va-tuoi-dao.html