Quãng sông nơi tôi từng qua

Đầu hè, dù đã hạ đến mức thấp nhất nhưng nước hồ Tả Trạch vẫn mênh mông. May mà ở phía bờ tây còn có động Mang Chang cao sừng sững và mỏm núi Mỏ Tàu ở phía bờ đông hắt bóng mình lên mặt nước đã giúp những người từng tham gia kháng chiến như chúng tôi 'định vị' được quãng sông mà mình từng băng qua, dù những bến bờ năm xưa đã bị phủ lấp.

 Tác giả bên sông Hai Nhánh

Tác giả bên sông Hai Nhánh

Ký ức bi hùng

Còn nhớ một sáng giữa mùa xuân của năm 1971, sau một đêm băng đồi và luồn rừng, đoàn chúng tôi đến bờ đông sông Hai Nhánh. Từ bên này sang bên kia, lội chừng mươi phút. Mặc dù lúc ấy mực nước của sông Hai Nhánh chỉ cao ngang ngực nhưng do dưới đáy sông có nhiều đá cuội, bám đầy rong rêu, nước lại chảy xiết, bị trơn trợt nên có người loạng choạng ngã. Không gian ồn ả bỗng im thin thít khi ở đâu đó trên không trung vọng đến tiếng máy bay, không rõ là L19 hay OV10. Hai loại máy bay này lúc trời quang thường thay nhau trinh sát. Chỉ cần một quả đạn màu ném xuống, khói chưa kịp tan là các loại trực thăng vũ trang ập đến xả đạn. Một chiến sĩ của Trung đội A Lơn bảo vệ đoàn cho biết như vậy khi nhắc chúng tôi khẩn trương vượt sông. May mà sáng đó chúng ở xa nên chúng tôi bình yên.

Sông Tả Trạch phát nguyên từ vùng rừng núi Nam Đông. Trước khi đổ về xuôi đến khu vực thác Cạn, sông chia làm đôi. Dân gian lấy đặc điểm này đặt tên sông là Hai Nhánh. Nhánh phía đông dài hơn 1 cây số nhưng ở quãng sông này nước khá sâu nên ít khi được chọn, còn nhánh phía tây dài hơn 3 cây số, do chạy quanh co qua nhiều ghềnh thác có nhiều bãi cạn nên thường được cán bộ, chiến sĩ chọn làm nơi qua về. Hai nhánh đông - tây của sông Hai Nhánh hợp lưu ở đồi Rường - điểm cao 229 trước khi nhập vào dòng Tả Trạch đổ về sông Hương.

Trước khi ngăn dòng Tả Trạch, sông Hai Nhánh còn hẹp và cạn nên trong chiến tranh, những người tham gia kháng chiến đều chọn quãng này, chủ yếu là nhánh phía tây làm điểm vượt sông. Vào mùa khô nước cao lắm chỉ ngang ngực nhưng khi lội cũng phải dè chừng bởi chỉ cần ở phía Bạch Mã –Nam Đông có trận mưa dông thì trong nháy mắt, nước sông đột ngột dâng cao. Nhiều người hy sinh không phải vì bom đạn mà vì tai ương ập đến bất ngờ này.

Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hồ Xuân Mãn đã từng kể cho tôi nghe những chuyện đau lòng mà ông từng chứng kiến ở dòng sông Hai Nhánh. Giữa năm 1968, đại đội an ninh vũ trang của ông đã chuyển từ khe Trái - Hương Trà vào vùng khe Đầy - Hương Thủy để bảo vệ hậu cứ Thành ủy Huế. Như bao cán bộ, chiến sĩ khác, do hậu cứ bị thiếu đói trầm trọng nên ông đã cùng đồng đội tìm cách xâm nhập vùng giáp ranh của hai xã Hưng Lộc và Hải Thủy để thu mua gạo.

Kể về trường hợp hy sinh của ông Xương (không biết họ), ông Hồ Xuân Mãn cho biết: Sáng đó, tổ an ninh 4 người chúng tôi đang chuẩn bị vượt sông thì có đoàn cán bộ nữ đến xin nhập đoàn. Dù trời không mưa nhưng nước sông Hai Nhánh đột ngột dâng cao. Sợ thám báo, biệt kích bất ngờ đổ bộ, tập kích, các chị không biết bơi lại mang vác nặng nên anh Xương (quê Sông Thao, Phú Thọ vốn là kiện tướng bơi lội của Công an vũ trang miền Bắc) mới tăng cường cho Tiểu đoàn An ninh vũ trang Huế xung phong giúp đỡ. Sau khi cuốn từng gùi gạo vào tấm nylon che mưa, anh Xương vừa đẩy phao gạo vừa cõng từng người và đã đưa được 14 chị qua bờ tây sông an toàn. Nhưng đến khi đang bơi quay lại bờ đông - nơi 3 anh em chúng tôi (Mãn, Tự và Hải) đang canh gác thì bất ngờ anh Xương bị nước cuốn trôi mà nguyên nhân có thể do đói, kiệt sức hoặc bị vọp bẻ. Sau này chúng tôi được biết thi thể anh Xương trôi về tận Tân Ba, bà con mình đi củi phát hiện đem chôn ở đó.

Ngoài trường hợp ông Xương, ông Hồ Xuân Mãn còn kể cho tôi nghe về trường hợp hy sinh của ông Hải (Phó Bí thư Huyện ủy Phú Lộc, quê Thanh Hóa). Hôm ấy ông Hải cùng cần vụ của mình đang lội ở giữa dòng thì bất ngờ ông Hải sẩy chân, bị nước sông Hai Nhánh cuốn trôi. Thi thể không tìm thấy.

Trường hợp sống sót của ông Lê Thanh Chỉ (quê Phong Điền, Đội trưởng thu mua của Ban Kinh tế Thành ủy Huế) là quá hy hữu. Hôm đó, ông Chỉ đang lội qua sông Hai Nhánh thì bất ngờ bị nước cuốn, may mà ông kịp vớ được khúc gỗ. Nhờ có cái “phao” cứu sinh này nên ông Chỉ thoát chết.

Tại hội thảo “Dấu ấn sông Hai Nhánh” diễn ra ngày 19/12/2024 ở thị xã Hương Thủy, cả hội trường lặng người khi nghe nguyên Chủ tịch UBND tỉnh (nay là thành phố Huế) Nguyễn Văn Mễ kể: Chính mắt ông đã trông thấy đoàn 10 người nắm tay nhau lội qua sông Hai Nhánh nhưng đến giữa dòng, do có người bị trượt chân nên tất cả chới với rồi ngã theo. Tất cả họ đã bị sóng ngầm ở đáy sông cuốn trôi.

Nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy (nay là Thành ủy Huế) Nguyễn Văn Cường xúc động khi kể về đồng đội của mình - một người bơi rất giỏi nhưng sau khi “đưa được một người qua sông, khi quay về định cõng tiếp người thứ hai thì có lẽ do bị kiệt sức nên đồng chí ấy bị nước cuốn trôi”.

Ông Phan Văn Đình, cựu cán bộ giao liên của Hương Thủy cho biết: Khi dẫn các đoàn cán bộ vượt sông, ông đã tận mắt chứng kiến cảnh ông Hồ Văn Dinh (quê Phú Xuân, Phú Vang) và ông Cát (An ninh Hương Thủy, quê Hà Tĩnh) khi vượt sông Hai Nhánh đã bị nước cuốn.

Đó chỉ là những trường hợp mà người chứng kiến hiện đang còn sống sót kể lại. Cuộc chiến kéo dài dằng dặc nên khó biết được đã có bao nhiêu người đã thầm lặng hy sinh khi vượt qua quãng sông này. Đau xót nhất là những người mẹ, người vợ, sau chiến tranh vẫn tìm vào “Mặt trận phía Nam” tìm kiếm hài cốt và xót xa khi không biết ngày nào là ngày giỗ của chồng, con mình. Máu và nước mắt đã hòa vào dòng sông Mẹ!.

Xứng đáng là di tích lịch sử

Do không xa Quốc lộ 1, lại gần các huyện phía nam: Phú Lộc, Phú Vang, Hương Thủy, thành phố Huế (cũ) và dễ dàng kết nối với hai tuyến Tỉnh lộ 12, 14 nên tuyến đường xuyên qua sông Hai Nhánh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong kết nối hậu cứ với đồng bằng.

Hàng vạn cán bộ chính trị và lực lượng vũ trang từ hậu cứ muốn về đồng bằng đều chọn Hai Nhánh làm điểm vượt sông, đặc biệt là từ sau giai đoạn cuối năm 1968, khi phần lớn cán bộ, chiến sĩ cách mạng bị “đánh bật” khỏi đồng bằng. Các đơn vị quân đội và các cơ quan của Thành ủy Huế và Huyện ủy Hương Thủy đã dựa vào thế “núi cao hào sâu” lập căn cứ ở bờ tây sông Tả Trạch thì điểm vượt sông Hai Nhánh không còn giữ bí mật được nữa.

Để khống chế điểm vượt sông này, dọc bờ đông sông Tả Trạch, tính từ ngã ba Tuần trở lên là hàng loạt căn cứ quân sự được xây dựng: Động Hoàng, Tân Ba (Asenal), Đá Đen, Mỏ Tàu, động Giếng, La Hy, Nguyễn Trãi 1, 2; còn ở bờ tây là các căn cứ: Hòn Gáy, núi Rệ, cao điểm 815, 875, động Do. Quân Mỹ thường tung biệt kích xuống khu vực cửa Khe 57 - Khe Vàng - Thác Mít, lợi dụng điểm cao để theo dõi; đặc biệt cuối sông Hai Nhánh.

Theo nguyên Đại đội phó Đại đội hành lang Hương Thủy - Trung úy Nguyễn Trung Kiên, cuối năm 1968, quân đội Mỹ đổ quân xuống cồn nổi (điểm cao 229) và lập ở đây một căn cứ quân sự. Giữa năm 1969, khi đang vượt sông Hai Nhánh thì 10 cán bộ, chiến sĩ của Huyện đội Hương Thủy bị máy bay phản lực F4 ập đến thả bom. Tất cả hy sinh, trong đó có Trợ lý Dân quân Nguyễn Văn Long, người quê Mỹ Thủy.

Để nhổ “cái gai” này, cuối năm đó, Thành đội Huế đã giao Tiểu đoàn 1 Đặc công thực thi nhiệm vụ. Nhờ kết hợp cường tập bằng hỏa lực và mật tập, cuối cùng căn cứ 229 của Mỹ bị xóa sổ.

Dù không còn quân chiếm đóng nhưng với phương tiện và thiết bị trinh sát hiện đại, quân đội Mỹ đã thả bom bướm, bom lá khắp các ngả đường, chỉ cần chạm vào hoặc dẫm lên là tử thần ập đến. Nhờ “định vị” của những toán biệt kích bí mật xâm nhập, quân đội Mỹ đã biến điểm vượt sông Hai Nhánh trở thành “tọa độ chết chóc”.

Nguyên Huyện đội trưởng Lê Hữu Tòng cho biết, khi vượt sông Hai Nhánh, Huyện đội Hương Thủy có 19 cán bộ, chiến sĩ hy sinh chủ yếu vì đạn pháo.

Thành đội Huế, sau khi thoát khỏi cuộc bao vây kéo dài 4 ngày ở khu vực Mang Chang, cuối năm 1968 đã phải liên tục di chuyển. Để có gạo nuôi quân, đơn vị cử người về đồng bằng thu mua. Và khi đang ở giữa sông Hai Nhánh bất ngờ trúng đạn pháo hoặc trực thăng xả đạn, chỉ tính trong 2 đợt đã có đến 30 cán bộ, chiến sĩ hy sinh.

Nguyên Trưởng ban Kinh tế Hương Thủy (1968-1971) Phan Thanh Long cho biết, năm 1968, đơn vị của ông có trên 200 người nhưng trong vòng chưa đầy một năm đã có gần một nửa hy sinh, chủ yếu vì bom. Riêng tại sông Hai Nhánh cuối năm 1968, khi cả đoàn đang vượt sông thì bất ngờ máy bay Mỹ ập đến ném bom. 40 chị hy sinh không tìm được thi thể.

Những trường hợp trên sau hơn nửa thế kỷ mới được những người sống sót kể lại và họ đoán quyết rằng ở sông Hai Nhánh, đồng đội của mình hy sinh nhiều lắm. Bởi ngoài lực lượng của địa phương, thời chiến tranh còn có nhiều đơn vị chủ lực của Quân khu Trị Thiên như các Trung đoàn 6, 271, K32 Hỏa lực, K33 Đặc công, K439... (Hà Nội chi viện cho Huế), các đơn vị của Thành đội Huế, Hương Thủy và Trung đoàn 1, 2 của Sư đoàn 324… tham gia chiến đấu ở khu vực này.

Thay bằng trả lời đồng đội, ông Lê Hữu Tòng thuật lại hoàn cảnh ra đời bài thơ “Đưa em về” của nhà báo Ngô Kha sáng tác đầu năm 1972 dành để tặng hai nữ cán bộ nằm vùng; đó là chị Dương Thị Gái, Huyện ủy viên Hương Thủy (nay còn sống) và chị Nguyễn Thị Nỗ, Q. Bí thư Đảng ủy xã Hưng Lộc (đã hy sinh). Sở dĩ ông Lê Hữu Tòng biết tường tận là vì năm ấy ông là Huyện ủy viên, Huyện đội phó Hương Thủy. Sau khi họp Huyện ủy mở rộng, ông được giao trách nhiệm đưa họ vượt sông Hai Nhánh. Cùng tiễn hai nữ cán bộ về đồng bằng hôm ấy còn có nhà báo Ngô Kha. Trong khi chờ giao liên, ngay bên bờ sông này, nhà báo Ngô Kha đã sáng tác và đọc cho chúng tôi nghe. Vì nó mộc mạc, gần gũi nên tận bây giờ chúng tôi còn nhớ!

Ngày 6/9/2024, thực hiện chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy (nay là Thành ủy Huế), Thị ủy Hương Thủy phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế tổ chức khảo sát và ngày 19/12/2024 đã tổ chức Hội thảo “Dấu ấn sông Hai Nhánh”, thống nhất chọn khu vực Đồi Rường - điểm cao 229 (cồn nổi sông Hai Nhánh) để dựng bia và miếu thờ liệt sĩ trong tiến trình lập hồ sơ đề nghị chính quyền mới của thành phố Huế công nhận là “Di tích lịch sử lưu niệm sự kiện địa điểm sông Hai Nhánh”.

Phạm Hữu Thu

Nguồn Thừa Thiên Huế: https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/quang-song-noi-toi-tung-qua-153027.html