Nhà thơ Bảo Ngọc: Giấc mơ và đời thực – sự vững chãi mong manh
Nhà thơ Bảo Ngọc tên thật là Nguyễn Thị Bích Ngọc, sinh năm 1974, quê quán ở Tân Dân, Khoái Châu, Hưng Yên; tốt nghiệp Khóa V Trường Viết văn Nguyễn Du; hiện đang làm việc tại Báo Thiếu Niên Tiền Phong ở Hà Nội và là Phó Chủ tịch Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam khóa X.
“Trong cơn mê của lửa” của nhà thơ Bảo Ngọc là một tập thơ mới và lạ, xét cả về nội dung và chất thẩm mỹ của tác phẩm. Để giúp ban đọc có thể hiểu hơn về tập thơ mới này. Phóng viên Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển đã có cuộc trao đổi với Nhà thơ Bảo Ngọc.

“Trong cơn mê của lửa” của nhà thơ Bảo Ngọc
PV: Được biết tập thơ “Trong cơn mê của lửa” mới xuất bản đã tạo được sự thu hút của cả nhà phê bình, các nhà thơ, nhà văn và bạn đọc, chị có thể chia sẻ gì về điều này?

Nhà thơ Bảo Ngọc
Nhà thơ Bảo Ngọc: Khi một tác phẩm vừa chào đời mà được nhà phê bình, bạn bè văn chương và cả bạn đọc quan tâm, thì không phải chỉ với riêng tôi, bất kể người cầm bút nào cũng thấy mình được tiếp thêm nguồn động lực để Viết. Tôi đón nhận tất cả những tín hiệu ấy với tinh thần trân trọng biết ơn từ trái tim, đồng thời cũng tự nhắc mình phải nghiêm khắc, phải có trách nhiệm hơn với từng trang viết.
PV: Thơ 1-2-3 với dạng thức biểu đạt mới, với chị đây là trở ngại hay là “mảnh đất mới” để chị dấn bước và trải nghiệm? Chị có thể nói một chút về thơ 1-2-3 để bạn đọc hiểu hơn về thể loại thơ mới này?

“Trong cơn mê của lửa” của nhà thơ Bảo Ngọc là một tập thơ mới và lạ, xét cả về nội dung và chất thẩm mỹ của tác phẩm
Nhà thơ Bảo Ngọc: Trước hết, tôi xin chia sẻ vài nét về thơ 1-2-3. Đây là thể thơ mới cấu trúc mỗi bài gồm 3 đoạn, 6 câu.
Đoạn 1, chỉ 1 câu, tối đa 11 chữ, đồng thời cũng là tựa đề của bài thơ. Đoạn 2 có 2 câu, với mỗi câu không quá 12 chữ. Và đoạn 3 với 3 câu, mỗi câu không quá 13 chữ.
Có thể coi thơ 1-2-3 tựa như bậc thang. Câu và đoạn tương ứng tối đa 11-12-13 chữ. Theo đó, tứ của một bài thơ 1-2-3 là mạch chảy, là sự tương hỗ giữa Hô và Ứng. Nghĩa là: Tựa đề bài thơ đồng thời là câu thứ nhất sẽ tạo ra một tiếng Hô để câu kết là sự Ứng đối, vừa là kết bài hoặc có thể mở ra một trường cảm nhận mới.
Thơ 1-2-3 vốn chặt chẽ về luật, cần tính hàm xúc, cô đọng, càng kiệm lời, ý càng gọn, càng sâu và giàu biểu tượng, hình ảnh càng tốt. Trong mỗi bài thơ 1-2-3 không thể dẫn nhiều ý rồi từ đó làm nổi bật tứ hoặc thông điệp, hoặc chủ ý mà nhà thơ tạo dựng. 1-2-3 cần xoáy sâu vào vấn đề mà tác giả muốn biểu đạt. Bởi vậy để viết được một bài thơ hay theo dạng thức 1-2-3 là điều không dễ.
Tuy nhiên, trong đời sống cũng như trong sáng tạo, con đường có nhiều thách thức bao giờ cũng luôn ấn chứa sự dẫn dụ đặc biệt. Người sáng tạo nói chung, người cầm bút nói riêng vốn đã có sẵn sự “liều lĩnh” và đam mê tìm tòi những điều mới mẻ để tạo nên những giá trị khác biệt. Do đó, tôi thử nghiệm với 1-2-3 cũng trên tinh thần vượt qua giới hạn, đánh thức những mạch ngầm, các vỉa tầng cảm xúc, tư duy của chính mình.

Nhà thơ Bảo Ngọc hiện đang làm việc tại Báo Thiếu Niên Tiền Phong ở Hà Nội và là Phó Chủ tịch Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam khóa X
PV: Nhà văn Trần Thu Hằng, trong bài phê bình về tập thơ “Trong cơn của mê lửa” có “gọi tên linh hồn” của tập thơ ở hai góc: 1. Đứa trẻ và nhà hiền triết; 2. Thiền trong cõi yêu thương. Chị cảm nhận thế nào về cách “gọi tên” này?
Nhà thơ Bảo Ngọc: Trước hết, tôi cảm nhận, đây không chỉ là bài viết của một nhà phê bình “có nghề” khi dẫn bạn đọc đi theo mạch của tập thơ với hai cặp phạm trù tưởng như đối lập nhưng lại hoàn toàn có sự tương hỗ lẫn nhau. Mà hơn thế, đây là bài viết nhiều rung động, có sự đồng cảm khi chạm đến các tầng cảm xúc và linh thức của chính tác giả.
Ở cặp cảm thức đầu tiên: Đứa trẻ và nhà hiền triết - tôi nghĩ, đây là phát hiện khá thú vị của nhà văn Trần Thu Hằng. Bởi lâu nay, tôi vốn được nhiều bạn đọc biết đến với cái tên “Một đứa trẻ nhiều tuổi”. Nhưng một “nhà hiền triết” đằng sau một đứa trẻ thì chỉ đến chị, hoặc ít nhất là đến tập thơ “Trong cơn mê của lửa” mới được chị phát hiện và gọi tên.
Trong thơ, cũng như trong đời sống, tôi đã đi qua nhiều cung bậc cảm xúc và trải nghiệm để nhận ra điều này: Rốt cục, chính những đứa trẻ quyết định con đường và sự lựa cách sống của chúng ta. Tâm hồn trẻ thơ, đôi mắt trẻ thơ luôn là tấm gương thuần khiết để trước mọi biến cố cuộc đời, tôi có thể quay về, ngồi lại, soi chiếu, xám nguyện và tìm thấy ánh sáng tỉnh thức bên trong mình. Vào thời khắc ấy, trước và trong chính tấm gương ấy, tôi thấy, 1 đứa trẻ - một nhà hiền triết xuất hiện.
Còn ở cặp thứ hai: Thiền trong cõi yêu thương – Đây cũng là cách cảm nhận khá tinh tế. Đôi khi chính tôi cũng tự thấy mình đi giữa lằn ranh khá mong manh của cõi thực và cõi mơ. Ở nhiều giấc mơ, tôi đã sống một đời sống rất thực, thực đến mức tôi có thói quen ngồi nhớ lại mỗi giấc mơ và tự hỏi, đấy có phải là một mảnh ký ức về một đời sống ở một cõi nào đó tôi đã từng có mặt. Trong khi đó, đối lập với giấc mơ, ở đời sống thực, khá nhiều lần tôi bị đi lạc trên con đường trở về ngôi nhà của chính mình.
Thật may, trong một khoảng thời gian dài làm việc cho Tạp chí Nghiên cứu Phật học của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi có đủ cơ duyên để tìm đến Phật pháp. Kể từ ấy, tôi đã đi từng bước trên hành trình vừa tỉnh thức, vừa nuôi dưỡng niềm đam mê yêu sống, men theo một sợi dây đặc biệt – Sợi dây của phím đàn chứa đựng sự “vững chãi - mong manh”.

Nhà thơ Bảo Ngọc tên thật là Nguyễn Thị Bích Ngọc, sinh năm 1974, quê quán ở Tân Dân, Khoái Châu, Hưng Yên; tốt nghiệp Khóa V Trường Viết văn Nguyễn Du
PV: Nói về sự tỉnh thức, chị có thể chọn một bài thơ nào để chia sẻ về tinh thần này?
Nhà thơ Bảo Ngọc: Trong tập thơ mới này, bạn đọc sẽ tìm thấy những satna tỉnh thức ở khá nhiều bài thơ như:
Mọi con đường đã có sẵn lối riêng
Tự do thuộc về kẻ biết lựa chọn và khước từ mạnh mẽ
Tình yêu và lý trí - con đường của kẻ mù thông tuệ.
Cứu rỗi và thi ca - con đường nằm trong trái tim của trẻ
Thế giới đảo điên này
Hãy nghe trẻ cất lời chỉ lối ta đi!
Tuy nhiên, bài thơ “Đối gương” – Bài thơ được viết từ ký ức về câu chuyện một người bị loạn trí lại khiến tôi có nhiều ám ảnh. Đó là hồi tôi làm Thư ký của Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Ngày ấy, trong số cộng tác viên, có một tác giả là Giám đốc của bệnh viện Tâm thần Đà Nẵng. Hồi đó, trong tập truyện mini anh gửi, có truyện kể về một người tâm thần rất hiền. Người được coi là mất trí ấy thường lặng lẽ một mình, ít khi la hét hoặc kêu ca như phần nhiều bệnh nhân khác. Bỗng một hôm nhìn thấy bác sĩ đi qua, người tâm thần chợt gọi bác sĩ lại và bảo:
- Này anh, những kẻ bị nhốt ở ngoài trời kia, anh hãy nhìn, cái lồng của các anh quá chật…
Khi mở email đọc tới truyện này, tôi đã sửng sốt dù vào thời điểm ấy, tôi chưa đủ trải nghiệm, thậm chí cả nhận thức sâu sắc về cuộc đời để ngộ ra điều gì đó đằng sau câu nói của một người mất trí. Nhưng rõ ràng hình ảnh ấy ám ảnh tôi mãi không thôi. Cho đến khi tôi bước vào mạch thơ 1-2-3, hình ảnh ấy đã trở lại. Và bài thơ “ Đối gương” ra đời:
Đối gương - Ta và Ngươi - kẻ nào mất trí?
Hào quang bỏ đi rồi - Ta mở mắt ngồi cười nhân thế
Tiền tài, hư danh, nặng túi tham - Ngươi biến thành nô lệ.
Hỡi kẻ bị nhốt ở ngoài trời!
Cái lồng của Ngươi quá chật.
Trong gương - không mặt nạ - chẳng đua tranh - Ta khóc đời một mắt!
Tôi tin mỗi bạn đọc bài thơ này sẽ cảm nhận về sự “tỉnh thức” theo cách mà mình trải nghiệm. Thậm chí, ngay cả với một cá nhân, khi đọc cùng một tác phẩm ở những thời điểm khác nhau lại có những chiều thức cảm nhận khác nhau. Nên tôi chỉ kể câu chuyện và bài thơ của mình để bạn đọc tự do khám phá.

Nhà thơ Bảo Ngọc
PV: Theo chị, tình yêu của người đã chạm đến tỉnh thức khác với tình yêu thông thường ở điểm nào?
Nhà thơ Bảo Ngọc: Ở câu hỏi này, tôi lại xin phép giới thiệu một bài thơ rút ra từ “Trong cơn mê của lửa”
Hơi thở ban mai chạm vào hoa nhỏ
Hoa nói gì không rõ
Mà ngọn gió kia hơn hớn như cười
Có lời này Hoa vừa nhủ cùng Tôi:
“Ta vì Người mà nở - Ta vì Ta mà tàn
Ta - Một cánh đào ôm cả nhân gian
Trong bài thơ tôi đã mượn lời của một cánh hoa để nói về trước hết là cái lẽ thường hằng tự nhiên của trời đất: Hoa nở rồi hoa tàn. Tuy nhiên đằng sau cái lẽ sinh diệt tự nhiên ấy còn thể hiện sự chủ động mà mỗi con người có thể lựa chọn cách sống cho mình. “Ta vì Người mà nở” mang ý nghĩa vừa giản dị vừa thiêng liêng của tỉnh thần tận hiến: Quà tặng đẹp nhất của Ta cho cuộc đời này chính là sự biết hy sinh, biết cho nhau và vì nhau. Trong tình yêu cũng vậy.
Còn “Ta vì Ta mà tàn” là sự tiếp tục của tinh thần ấy trên phương diện chủ động hơn. Nếu cánh hoa không gặp thuận duyên như nắng ngọt, mưa lành mà gặp bão táp nưa sa thì cánh hoa bé nhỏ ấy cũng xác định: “đó là vì Ta” không phải “vì Người”. Sự chủ động, không đổ lỗi, oán trách, than vãn, đó là một tâm thế sống của người tỉnh thức.
Sự tỉnh thức này kết nối với câu cuối “Ta một cánh đào ôm cả nhân gian” để nói một điều giản dị: Khi lòng từ bi đủ rộng để ôm cả nhân gian, ôm nỗi đau phận người, ôm cả nỗi đau nhân thế, ta sẽ thấy nỗi đau của mình chỉ là một bài tập nhỏ cần được hóa giải để trưởng thành.
Cảm thức ấy chỉ có thể đến khi Ta đã lùi sâu vào khoảng tĩnh tại của nội tâm để từ đó đưa ánh mắt của mình nhìn ra, ôm trọn lấy thế giới và tan ra trong dòng năng lượng vô tận của vũ trụ. Đó chính là yêu thương không bám chấp của người đã chạm đến trạng thái của Thiền!
PV: Chị có thể chia sẻ một chút về tính thi - họa của tập thơ?
Nhà thơ Bảo Ngọc: Khi đặt vấn đề về việc vẽ Minh họa cho tập thơ, tôi đã chủ động tạo ra cuộc đối ngẫu giữa họa và thơ theo cách thiết kế trang đôi, một bên là thơ, một bên là họa. Tôi thích những bức họa đen trắng, không cần mô tả rõ ràng màu sắc, chỉ phác bằng các đường nét để tạo sức gợi và sự liên tưởng. Thật may, những bức tranh minh họa của họa sĩ Nguyễn Doãn Sơn đã tạo được sự đồng điệu trên từng trang thơ khiến mỗi bài thơ có thêm thi liệu thêm đẹp và sinh động.
PV: Câu hỏi cuối cùng, chị suy nghĩ gì về sứ mệnh của một nhà thơ?
Nhà thơ Bảo Ngọc: Tôi xin phép không nói về những điều lớn lao. Tôi chỉ xin chia sẻ về cách tôi đã suy ngẫm trước câu hỏi của một học sinh lớp 4, khi tôi tới trò truyện tại trường Quốc tế Reigate Grammar Việt Nam. Cậu bé ấy đã hỏi: “Với tư cách là một nhà văn, xin cô cho biết, cuốn sách gần đây nhất cô xuất bản vào năm nào? Cô có đặt kế hoạch trong khoảng mấy năm lại xuất bản một cuốn sách hay không?” – Với tôi, chính câu hỏi này cũng là một sự thức tỉnh. Nó nhắc nhở tôi rằng, tôi không chỉ đón nhận danh xưng nhà văn và yên trí với danh xưng ấy. Tôi phải làm việc nghiêm túc xứng đáng với sự mong chờ từ bạn đọc của mình. Và tôi biết ơn các em, cũng như biết ơn bạn đọc của mình về điều đó!