Muốn 'sàng lọc' FDI, nhưng không biết dựa vào đâu
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang tìm nơi 'trú ẩn' giữa lúc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung chưa có dấu hiệu kết thúc. Đây là cơ hội để Việt Nam nâng cao chất lượng ngành sản xuất trong nước, qua đó có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Vấn đề là ở chỗ chúng ta có thu hút được về mình những nhà đầu tư 'có chất lượng' hay không?

Việc sàng lọc nguồn vốn FDI là rất khó.
Chưa phải là điểm đến tin cậy của các đại gia công nghệ
Quan sát của PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), cho thấy các công ty tốt nhất của Mỹ, châu Âu, Nhật Bản không “chọn” Việt Nam mà dịch chuyển sang các quốc gia trong khu vực như Malaysia, Indonesia, và Thái Lan. Đây là những quốc gia đã có ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, nguồn lao động chất lượng và đã xây dựng được thương hiệu quốc gia là điểm đến đầu tư hấp dẫn.
“Việt Nam chủ yếu tiếp nhận vốn từ công ty có công nghệ tầm trung, sử dụng lao động giản đơn”, ông Thành nói. Điều này hàm ý, Việt Nam vẫn chưa phải là điểm đến tin cậy của các đại gia công nghệ.
Thực tế, Mỹ, cường quốc về công nghệ, chỉ đầu tư vào Việt Nam gần 180 triệu đô la Mỹ trong sáu tháng đầu năm. Lũy kế tới thời điểm hiện tại, nền kinh tế dẫn đầu thế giới này chỉ đầu tư vào Việt Nam 10 tỉ đô la Mỹ so với con số 300 tỉ đô la Mỹ mà nước này đã đầu tư ra nước ngoài.
Liên minh châu Âu (EU), thị trường được cho là có nguồn vốn chất lượng, thân thiện với môi trường, cũng chỉ đầu tư vào Việt Nam khoảng 24,67 tỉ đô la Mỹ tính đến cuối năm 2018, một con số quá nhỏ so với tiềm năng của cộng đồng này.
“Đây là một con số quá nhỏ so với tổng số vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam”, ông Nguyễn Văn Toàn, Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Vafie), nói.
Trong khi đó, doanh nghiệp từ Trung Quốc, Hồng Kông lại khá mạnh tay đầu tư vào thị trường 96 triệu dân, động thái được cho là nhằm tránh bão trước cuộc thương chiến Mỹ - Trung.
Sáu tháng đầu năm, Trung Quốc tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với tổng số vốn đăng ký mới đạt 1,68 tỉ đô la Mỹ, vượt xa các đối tác truyền thống đến từ khu vực Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc. Các vị trí tiếp theo thuộc về Hàn Quốc (1,24 tỉ đô la Mỹ), Nhật Bản (972 triệu đô la Mỹ), Hồng Kông (920,8 triệu đô la Mỹ), theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê.
Trung Quốc đã bắt đầu dịch chuyển đầu tư sang Việt Nam khoảng ba năm trước nhằm tận dụng các hiệp định thương mại mà Việt Nam đang và sẽ ký kết. Các doanh nghiệp từ quốc gia này đẩy nhanh tốc độ rót vốn vào Việt Nam từ cuối năm 2018, thời điểm nổ ra căng thẳng thương mại giữa hai cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới. Số liệu mới nhất cho thấy, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và góp vốn mua cổ phần của Trung Quốc và Hồng Kông sáu tháng đầu năm đạt 7,5 tỉ đô la Mỹ, trong đó, riêng nguồn vốn từ Hồng Kông đạt 5,3 tỉ đô la Mỹ. Những dự án đầu tư này vẫn chủ yếu chảy vào các ngành gia công, lắp ráp như dệt may, da giày, săm lốp ô tô và linh kiện điện tử.
“Chúng tôi đánh giá đây là con số tăng đột biến”, ông Nguyễn Việt Phong, Vụ trưởng Vụ Thống kê xây dựng và vốn đầu tư, Tổng cục Thống kê, nói. Bởi, tổng nguồn vốn đăng ký mới và góp vốn cổ phần của hai thị trường này trong cả năm 2017 mới chỉ đạt 3,7 tỉ đô la Mỹ; năm 2018 là 5,8 tỉ đô la Mỹ, thấp hơn nhiều so với con số sáu tháng đầu năm nay.
Chủ yếu dựa trên việc “nhìn” nhà đầu tư
Khi đất nước còn nghèo, lao động thiếu việc làm, Việt Nam có thể chấp nhận ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bằng mọi giá. Nhưng tại thời điểm này, khả năng hấp thụ nguồn vốn trong nước không còn nhiều, đặc biệt liên quan tới nguồn lao động thiếu về cả số lượng và chất lượng; ngành công nghiệp hỗ trợ, cơ sở hạ tầng chưa phát triển và các rào cản liên quan tới môi trường đầu tư. Nhiều doanh nghiệp gần đây chia sẻ, tình trạng thiếu lao động và cơ sở hạ tầng quá tải khiến thời gian giao hàng bị chậm so với kế hoạch. Thậm chí, họ không dám nhận thêm đơn hàng từ các đối tác do sợ không đủ nguồn lực.
“Những điểm nghẽn này cho thấy khả năng hấp thụ nguồn vốn của Việt Nam không tốt”, ông Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), nói. Với nguồn lực có hạn, đây là lúc Việt Nam phải tính tới bài toán về nguồn vốn chất lượng để nâng tầm lao động, công nghệ và môi trường.
Việt Nam đã có dự thảo về chiến lược thu hút nguồn vốn FDI giai đoạn mới và nghị quyết của Bộ Chính trị về đầu tư nước ngoài nêu rõ mục tiêu thu hút nguồn vốn “chất lượng” và “hiệu quả”. Dù vậy, vị Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho rằng, với hệ thống pháp luật hiện tại, “chắc chắn việc sàng lọc nguồn vốn FDI là rất khó” vì không thể sàng lọc bằng ý thức chủ quan mà phải thông qua hệ thống văn bản pháp luật với tiêu chí hết sức cụ thể.
“Hiện nay, ngay cả định nghĩa thế nào là công nghệ cao, thế nào là công nghệ nguồn, mức ưu tiên như thế nào vẫn chưa có”, ông nói. “Chính điều này đã dẫn tới việc các địa phương chủ yếu nhận dự án dựa trên việc “nhìn” nhà đầu tư, chứ không phải chất lượng dự án”.
Đề xuất hướng thu hút FDI giai đoạn tới, ông Nguyễn Văn Toàn cho rằng, tiêu chí thu hút nguồn vốn ngoại phải được xây dựng trên cơ sở khoa học. Muốn vậy, phải thành lập một đội ngũ đủ năng lực để xác định thế nào là công nghệ cao, thế nào là công nghệ nguồn và đi kèm với nó là những chính sách cụ thể cho từng loại hình sản xuất, kinh doanh. “Đây là bài toán khó”, ông Toàn nói. “Chính phủ và các bộ ngành liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ cần phải vào cuộc và phối hợp chặt chẽ trong việc xây dựng bộ tiêu chí này”.
Chính vì chưa có tiêu chí cụ thể, chưa có bộ lọc rõ ràng nên xảy ra tình trạng nhiều tỉnh, thành phố không tiếp nhận dự án từ Trung Quốc, dù đây là các dự án có chất lượng tốt. “Tôi hy vọng, sau nghị quyết mới của Bộ Chính trị, sự triển khai (bộ lọc FDI) sẽ tốt hơn. Đây là công việc quan trọng để nước ta có được công nghệ cao, công nghệ nguồn và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng”, lãnh đạo Vafie nói.
Trái dự báo của các chuyên gia khi cho rằng thương chiến sẽ giúp Việt Nam tiếp nhận nhiều vốn FDI, sáu tháng đầu năm, cả nước đã thu hút 1.723 dự án cấp phép mới, tăng 26,1%; tổng số vốn đăng ký đạt 7,41 tỉ đô la Mỹ, nhưng giảm 37,2% so với cùng kỳ năm trước, theo số liệu mới công bố của Tổng cục Thống kê. Nguồn vốn này chủ yếu chảy vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 73,4% tổng vốn đăng ký cấp mới); tiếp đến là ngành hoạt động kinh doanh bất động sản (chiếm 10,8%).
Vũ Dung