Mở rộng hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho người học sẽ mang lại lợi ích kép

Để chính sách hỗ trợ tài chính cho người học thực sự phát huy hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa TW và địa phương, gắn đào tạo với nhu cầu xã hội.

Hiện nay, tình hình thế giới có những thay đổi sâu sắc, toàn diện, đặc biệt là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang định hình lại nền giáo dục trên phạm vi toàn cầu. Các quốc gia đang phải xác định lại tầm nhìn và chiến lược mới cho phát triển hệ thống giáo dục trong tương lai, đưa ra những chính sách mới để phát triển, cạnh tranh và thu hút nhân tài. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, với tầm nhìn chiến lược và giá trị thực tiễn cao, tiếp tục xác định giáo dục "là quốc sách hàng đầu", "quyết định tương lai dân tộc".

Theo đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp đột phá đáng chú ý được nêu là: "Mở rộng các chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi cho người học, không để học sinh, sinh viên nào bỏ học vì điều kiện tài chính. Xây dựng và triển khai Đề án đào tạo tài năng, ưu tiên các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ. Thành lập Quỹ học bổng quốc gia và phát huy hiệu quả các quỹ khuyến tài, khuyến học khác từ nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn hợp pháp khác để khuyến khích học tập và phát triển sự nghiệp giáo dục".

Góp phần giảm tình trạng nợ đọng, giúp nhà trường ổn định nguồn lực

Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, yêu cầu đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho giáo dục trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Chủ trương mở rộng hỗ trợ tài chính, bảo đảm cơ hội tiếp cận giáo dục công bằng cho mọi người học, đồng thời phát huy hiệu quả các quỹ học bổng được kỳ vọng tạo cú hích quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng mục tiêu phát hiện, bồi dưỡng và khuyến khích tài năng của đất nước. Chia sẻ về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Linh Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng cho biết, mở rộng tín dụng ưu đãi dành cho người học vừa mang lại nhiều giá trị thiết thực đối với sinh viên, vừa có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển bền vững của cơ sở giáo dục đào tạo.

Việc tăng cường các chính sách tín dụng ưu đãi và xây dựng, triển khai Đề án đào tạo tài năng, ưu tiên các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ không chỉ giúp gia tăng sự quan tâm của người học đến những lĩnh vực then chốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà còn mở ra nhiều thuận lợi cho công tác tuyển sinh của nhà trường. Khi cơ hội tiếp cận giáo dục được mở rộng, nguồn tuyển sinh dồi dào hơn sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng đầu vào.

Mặt khác, chính sách hỗ trợ tài chính còn góp phần tăng khả năng tiếp cận giáo dục đại học và sau đại học, giúp người học yên tâm nâng cao trình độ học vấn và năng lực nghiên cứu, vững bước trên con đường tiếp cận tri thức, đồng thời giảm bớt gánh nặng kinh tế cho các gia đình.

 Ảnh minh họa: Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng.

Ảnh minh họa: Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng.

Qua đó, bất cứ sinh viên nào có mong muốn học tập đều có điều kiện hiện thực hóa. Các cơ sở đào tạo có thể thu hút và giữ chân người học, hạn chế tình trạng bỏ học vì áp lực khó khăn về tài chính. Khi sinh viên an tâm tập trung học tập thì chất lượng đào tạo cũng được nâng cao, tạo ra đội ngũ nhân lực tốt, góp phần khẳng định uy tín, vị thế và học hiệu của nhà trường trong hệ thống giáo dục đại học.

Nghị quyết 71 cùng với Quyết định số 29/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 28/8/2025 về chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh theo học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM), theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Công Thuật - Trưởng phòng Phòng Đào tạo, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, đây được xem là những chủ trương vượt trội, mở rộng dần phạm vi đối tượng người học được hưởng chính sách, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của xã hội đối với nhân lực ngành STEM.

Trước đây, chủ yếu chỉ có sinh viên thuộc hộ nghèo, cận nghèo, khó khăn về tài chính được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Năm học 2025-2026, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng tuyển sinh hơn 3.900 sinh viên cho 41 ngành/chuyên ngành đào tạo thuộc lĩnh vực STEM. Với chính sách tín dụng mới tại Quyết định số 29, đa số sinh viên từ năm thứ nhất của nhà trường có cơ hội được đáp ứng điều kiện về đối tượng vay vốn. Tiền sinh hoạt phí và chi phí học tập khác tối đa là 5 triệu đồng/tháng, lãi suất cho vay là 4,8%/năm; lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất khi cho vay. Tín hiệu tích cực của Nghị quyết 71 tiếp tục đem đến cơ hội không để bất cứ sinh viên nào bỏ học vì điều kiện tài chính.

Có thể nói, đây là bước ngoặt quan trọng, mở ra cơ chế tín dụng ưu đãi dành cho mọi người học, trong đó có lĩnh vực STEM và các ngành mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, kinh tế số, bán dẫn. Đối với cơ sở giáo dục, định hướng này giúp ổn định công tác tuyển sinh và nâng cao chất lượng đào tạo. Thực tế cho thấy, có nhiều thí sinh trúng tuyển vào các ngành công nghệ cao nhưng lại từ chối nhập học do lo ngại gánh nặng chi phí. Vì vậy, chính sách mới này gần như tháo gỡ rào cản đó, tạo điều kiện tăng tỷ lệ nhập học. Sự ổn định tài chính giúp các em hạn chế tình trạng bỏ dở việc học, từ đó tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn được nâng lên.

 Ảnh minh họa: Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.

Ảnh minh họa: Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.

Ở góc độ quản trị, việc xác nhận học phí làm căn cứ vay vốn cũng góp phần giảm tình trạng nợ đọng, giúp nhà trường ổn định nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm và nâng cao chất lượng giảng dạy. Về dài hạn, chủ trương mở rộng hỗ trợ cho học viên cao học và nghiên cứu sinh, trở thành đòn bẩy khuyến khích người học tiếp tục theo đuổi nghiên cứu chuyên sâu.

Cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ học phí và cơ chế thực hiện trợ cấp có mục tiêu

Với tầm nhìn chiến lược và mục tiêu cụ thể, Nghị quyết số 71-NQ/TW mở ra định hướng phát triển quan trọng, nhất quán quan điểm lấy người học làm trung tâm, coi nhà giáo là động lực then chốt, đồng thời nhấn mạnh vai trò đầu tư có chiều sâu nhằm kiến tạo hệ sinh thái giáo dục lành mạnh, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường – doanh nghiệp – xã hội.

Đánh giá về nội dung này, thầy Trần Thế Mỹ - Phòng Công tác Chính trị và Học sinh, Sinh viên, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho hay, chủ trương mở rộng phạm vi đối tượng vay tín dụng, hỗ trợ học phí, chi phí sinh hoạt đối với người học nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng là bước tiến đột phá để thu hút nhân lực.

Song, để chính sách hỗ trợ tài chính thực sự đi vào thực tiễn, phát huy hiệu quả, công bằng và bền vững, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Trung ương và địa phương, đơn giản hóa thủ tục, bảo đảm kinh phí ổn định, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, nâng cao động lực nghề nghiệp và điều chỉnh quy định bồi hoàn theo hướng nhân văn, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giáo dục trong thời kỳ mới.

 Ảnh minh họa: Đào Hiền.

Ảnh minh họa: Đào Hiền.

Cụ thể, để chủ trương được hiện thực hóa sẽ cần bảo đảm nguồn kinh phí ổn định và kịp thời. Bộ Tài chính cần chủ động dự toán đủ kinh phí hỗ trợ sinh viên trong dự toán ngân sách hằng năm, đồng thời hoàn thiện cơ chế giao dự toán gắn với quy trình giải ngân thuận lợi để sinh viên có thể nhận hỗ trợ đúng thời hạn.

Chính phủ có thể xem xét thành lập quỹ dự phòng hoặc lồng ghép nguồn lực trong các chương trình an sinh xã hội, nhằm hạn chế tình trạng người học chưa kịp nhận hỗ trợ thì giá sinh hoạt tăng. Trong trường hợp chậm cấp kinh phí, các cơ sở đào tạo nên được tạo điều kiện tạm ứng từ ngân sách sự nghiệp giáo dục và cần cơ chế hoàn trả phù hợp, kịp thời từ Nhà nước.

Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách miễn học phí và hướng đến cơ chế thực hiện trợ cấp có mục tiêu, cầngắn hỗ trợ với nhu cầu sử dụng nguồn lao động và nâng cao cho người học động lực nghề nghiệp. Đẩy mạnh việc chủ trì dự báo nhu cầu việc làm từng ngành, từng địa phương, từ đó hướng dẫn các trường phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp là cần thiết. Tăng thu nhập khởi điểm, cải thiện môi trường làm việc và cơ hội phát triển nghề nghiệp cho sinh viên sẽ giúp cam kết bồi hoàn trở nên hợp lý và khả thi.

Ngoài ra, cần đơn giản hóa thủ tục và tăng cường giám sát. Quy trình đăng ký hỗ trợ nên được số hóa, từ khâu nộp hồ sơ, xác nhận cam kết tới chi trả kinh phí. Các trường cần xây dựng cổng thông tin điện tử để sinh viên có thể tra cứu tiến độ giải ngân, tình trạng cam kết và bồi hoàn. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính nên có hệ thống dữ liệu liên thông để theo dõi toàn bộ sinh viên hưởng hỗ trợ trên phạm vi quốc gia. Công tác kiểm toán, thanh tra tài chính phải diễn ra định kỳ nhằm phát hiện và xử lý kịp thời trường hợp chi không đủ hoặc chậm chi.

Mặt khác, cần nâng cao vai trò của cơ sở đào tạo không chỉ là “bên nhận kinh phí” mà phải chủ động hơn trong tổ chức thực hiện. Cơ sở đào tạo nên thành lập tổ công tác chuyên trách về chính sách hỗ trợ sinh viên để tư vấn đầu vào, hướng dẫn sinh viên hoàn thành thủ tục, theo dõi tiến độ học tập và cam kết nghề nghiệp; cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức để xây dựng kế hoạch tuyển dụng, hỗ trợ sinh viên tìm việc sau tốt nghiệp, tránh tình trạng sinh viên phải bồi hoàn vì thất nghiệp; tuyên truyền rộng rãi về ý nghĩa nhân văn của chính sách.

Cơ chế phản hồi hai chiều cần được thiết lập để có kênh tham vấn thường xuyên giữa sinh viên, cơ sở đào tạo, địa phương và các bộ, ngành. Thông qua các diễn đàn trực tuyến, hội nghị định kỳ, các bên có thể chia sẻ khó khăn, đề xuất giải pháp và điều chỉnh kịp thời. Việc lắng nghe ý kiến của sinh viên - đối tượng thụ hưởng là cần thiết để chính sách phù hợp thực tiễn và tạo niềm tin. Ngoài ra, các cơ quan báo chí, tạp chí chuyên ngành và cơ quan khoa học nên phát huy vai trò giám sát và phản biện công khai, góp phần hoàn thiện chính sách.

Diệu Dương

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/mo-rong-ho-tro-tai-chinh-tin-dung-uu-dai-cho-nguoi-hoc-se-mang-lai-loi-ich-kep-post254861.gd