Lia thia không quen chậu

Ảnh minh họa do AI vẽ
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu...
Mỗi lần nghe câu hát đó, tôi tức muốn giập mật, hai cái mang phập phồng, giận không thể đâm đầu vào chậu, cho muốn ra sao thì ra. Chim quyên thì thích ăn trái nhãn lồng, hẳn nhiên rồi! Nhưng tôi thì không thể nào quen với cái chậu bé xíu, bơi chưa mỏi vây đã về lại chỗ cũ. Vậy nên nếu để ý, các bạn sẽ thấy dòng họ Lia Thia của chúng tôi chẳng bao giờ siêng bơi trong chậu. Rảnh rỗi, cũng chỉ đứng lù lù nhìn cảnh vật chán chường mà tiếc rẻ những huy hoàng.
Thời cụ tổ, khi may mắn vượt thoát khỏi cảnh giam cầm, tù túng, ông đã hì hục khắc lên bia đá trước cửa hang từ đường, căn dặn con cháu tuyệt đối không để bị bắt, chịu cảnh “cá chậu chim lồng”. Nhưng vì bản tính ham xê dịch nên hết lớp này đến lớp khác thay phiên nhau rời hang, khám phá thế giới, thỏa chí yêng hùng.
Tôi là con út nên mỗi khi nhìn các anh lớn trong nhà lần lượt rời đi, tôi chỉ mong nhanh đến lượt mình. Lúc ấy, tôi ước giá như vảy mình cứng cáp, vây mọc đủ dài và đuôi xòe căng hết cỡ để có thể theo các anh lớn đi kiếm ăn, ngắm nhìn thế giới ngoài kia. Trái ngược với sự chờ đợi của tôi, ba mẹ lúc nào cũng sợ phải rời xa tôi, sợ những hiểm nguy rình rập, sợ những xoáy nước sâu và cả những chiếc rổ khổng lồ không lối thoát. Tôi chẳng bao giờ bận tâm đến những chuyện đó. Bởi tâm trí tôi đã gửi ở những con đường.
Đêm cuối cùng trước khi lên đường. Tôi cứ lò dò đứng ngóng trước cửa hang, mong trời mau sáng. Không biết vì tiếng lục đục của tôi hay vì sự lo lắng mà ba mẹ cũng trằn trọc không ngủ được. Ba mẹ đứng nép vào nhau, mắt ầng ậc nước nhìn tôi hăm hở trước những cung đường. Tôi xòe đuôi quạt nước thật mạnh, bơi một mạch thẳng về phía trước. Mải mê nhìn đàn Ròng Ròng lặn hụp xôn xao cặp mé bờ, những gã Lìm Kìm bơi ngược nước hát vu vơ, mấy lão Cua Đồng hì hục đào hang và bầy Lòng Tong lắm lời với những chiếc môi trề quá cỡ. Để đến khi quay đầu nhìn lại, tôi đã ra khỏi đồng năn lúc nào không hay. Giờ này, chắc ba mẹ vẫn đứng ngay ở cửa hang dõi theo tôi. Tôi chưa kịp vơi bớt bùi ngùi, thằng cá Bã Trầu bơi đến chí chóe.
- Này anh Lia Thia, anh có biết đường đến đồng cỏ bàng không?
Tôi bơi quanh thằng Bã Trầu rồi ra giọng anh lớn.
- Mày đến đó làm gì?
- Dạ, đến đó thì em chẳng cần lo cái ăn nữa.
Tôi húng hắng giọng nhìn nó.
- Đường tới đó còn xa. Thân cô thế cô như mày, đến đó sao được?
Thằng Bã Trầu ngẩn ngơ nhìn tôi một lúc rồi nói:
- Nhưng chỗ em thất mùa quá anh Lia Thia ạ. Em có thể đi cùng với anh được không?
Chỉ chờ có thế nhưng tôi vẫn cố giả bộ lưỡng lự như thể không muốn có thêm vướng bận nào. Tôi ngần ngừ lúc lâu mới nói.
- Chú em theo ta cũng được. Nhưng phải biết nghe lời và chăm chỉ làm việc.
Thằng Bã Trầu gật đầu lia lịa, vẩy vây trồi lên ngụp xuống đến chóng cả mặt. Lát sau, thằng Bã Trầu cứ luôn miệng gọi tôi là đại ca, nghe sướng lỗ tai. Đang ngất ngây với cảm giác đó, thằng Bã Trầu lại bơi tò tò quanh tôi.
- Giờ thì mình đi đường nào đại ca?
Nhìn con đường trước mắt, tôi cũng không biết phải đi về đâu. Tôi chỉ được nghe các bác trong làng kể về đồng cỏ bàng một lần duy nhất. Nhưng giờ mà thú thật với thằng Bã Trầu thì biết giấu mặt vào đâu. Tôi đành ậm ờ nói lảng sang chuyện khác, cốt để nhớ lại lời kể của các bác trong làng. Thằng Bã Trầu sốt ruột, bơi đến ngay trước mặt tôi.
- Đại ca ơi! Mình bơi theo hướng nào?
Tôi trừng mắt nhìn thằng Bã Trầu.
- Chú làm gì mà cuống đuôi lên vậy. Thì chú cứ bơi theo tôi là được!
Nói đoạn, tôi lách qua người thằng Bã Trầu, ung dung bơi đi mà trong đầu vẫn cố hình dung đường đến đồng cỏ bàng. Thằng Bã Trầu bơi theo sau tôi suốt dọc đường mà không dám nói gì thêm. Cảnh vật bên đường khác xa với làng của tôi. Hèn chi ai nấy lớn lên đều nôn nao được rời nhà, ngao du thiên hạ. Tôi dừng lại, ngoái đầu về phía thằng Bã Trầu, suýt nữa nó đâm sầm vào tôi. Nó hớn hở nhìn tôi.
- Bộ đến đồng cỏ bàng rồi hả đại ca?
Tôi ngáp dài, thổi phì phào từng chùm bong bóng rồi thả mình từ từ xuống đáy ruộng.
- Chưa đâu. Còn xa mịt mùng! - Tôi nguýt một đường dài nhìn nó - Nhưng thấy chú em thấm mệt nên nghỉ ngơi một lát rồi hẵng lên đường.
Thằng Bã Trầu tin sái cổ, xúc động chừng như sắp khóc đến nơi. Chúng tôi bơi vào nghỉ trong bụi bông súng. Thư thả lúc lâu, tôi đưa mắt nhìn thằng Bã Trầu, ngứa mồm.
- Tôi với chú em dù là họ hàng xa nhưng trông chú cứ thế nào ấy. Đuôi, vây nhợt nhạt như nước phèn. Chú em nhìn tôi mà xem.
Vừa dứt lời, tôi đã xòe đuôi bày ra vẻ lộng lẫy, thiện chiến của mình. Thằng Bã Trầu trố mắt nhìn rồi lại xuýt xoa.
- Giá mà em oai phong được phân nửa đại ca thôi cũng sướng đời!
Tôi lại kể cho thằng Bã Trầu nghe về dòng dõi Lia Thia mà tôi nghe lỏm được từ mấy bác lớn tuổi trong làng.
- Hồi xưa, cụ tổ của tôi từng thống lĩnh đội quân thiện chiến nhất thành Củi Mục. Đánh thắng không biết bao nhiêu trận. Tiếng tăm vang rền. Về sau, ông còn được phong đến chức tể tướng.
Thằng Bã Trầu nhìn tôi bằng đôi mắt ngưỡng mộ, nó cứ chóc mỏ chờ nghe tiếp. Nhưng tôi ngáp một hơi dài vờ như sắp ngủ đến nơi. Dù tiếc lắm nhưng thằng Bã Trầu cũng đành bơi theo tôi vào trong vỏ dừa để tránh phải nghe tiếng Nhái Bén tập nhảy xa lụp bụp trên lá bông súng. Bữa đó, thằng Bã Trầu cứ lăn trở làm tôi không tài nào chợp mắt được. Suốt đêm thao thức khiến tôi cảm thấy nhớ nhà xiết bao. Giá như giờ này có mẹ hát ru tôi ngủ thì hay biết mấy!
Chúng tôi ngày đi đêm nghỉ, ròng rã suốt năm ngày bơi mới đến được đồng cỏ bàng. Trước mắt chúng tôi là đồng cỏ rộng lớn với hàng trăm cư dân sinh sống. Không khí tấp nập, rộn ràng như mở hội. Nhìn vẻ mặt hớn hở của thằng Bã Trầu, tôi đắc ý vô cùng.
- May nhờ có đại ca, em mới đến được đây! - Thằng Bã Trầu mừng rỡ.
- Chuyện bé tí tì ti. Chú em quên tôi là dòng dõi nhà quan à.
Thằng Bã Trầu gật gù mà miệng vẫn không ngừng đớp thức ăn. Chẳng mấy chốc bụng nó đã căng tròn, bơi lặc lè tới chỗ tôi. Thằng Bã Trầu ợ lên một tiếng rồi nói.
- Lâu rồi em mới được ăn uống no nê đến vậy.
Tôi nhìn nó cười khà khà.
- Tới được đây rồi. Từ nay không còn phải lo cái ăn. Chú em cũng chẳng cần phải theo tôi làm gì nữa.
Thằng Bã Trầu hốt hoảng, giọng lắp ba lắp bắp.
- Không có đại ca! Em… em sao biết đường mà đi.
Thấy nó mếu máo, tôi cũng không đành lòng. Kể ra có nó đi cùng, tôi cũng đỡ buồn chán hơn. Rõ là vậy nhưng tôi vẫn lên giọng.
- Thôi vậy. Chứ thấy chú em, tôi thương quá!
Từ dạo đấy, hễ tôi đi đâu là thằng Bã Trầu bơi kè kè bên cạnh. Thỉnh thoảng tôi còn bắt nó đấm lưng, gãi ngứa, dọn dẹp chỗ ngủ. Mọi việc nó đều làm theo răm rắp, cứ như chỉ cần lơ là một chút, tôi sẽ đuổi thẳng cổ nó đi. Tưởng như cuộc sống cứ thế bình yên trôi qua. Nhưng đến một sáng tinh mơ, hãy còn đang ngái ngủ, tôi đã nghe những tiếng động mạnh liên tục dội xuống, nước bỗng chốc đục ngầu loang ra cả một vùng rộng lớn. Tôi bơi lần mò ra mép cỏ trong khi thằng Bã Trầu cứ cắn chặt đuôi tôi không buông. Đột nhiên thằng Bã Trầu hỏi với lên.
- Có chiến tranh hả đại ca?
Tôi chưa kịp trả lời, anh Lóc Cửng đã vội đáp lời.
- Chiến tranh gì giờ này nữa. Đám trẻ đang xúc cá đó.
Tôi giật mình nhớ đến lời dặn của tổ tiên nhưng đã quá muộn. Đám trẻ đứng thành vòng tròn, giậm chân liên tục rồi từ từ áp sát vào nhau. Vòng tròn thu nhỏ khiến tôi, thằng Bã Trầu và anh Lóc Cửng bị dồn vào hốc đất. Bất thình lình, có vật gì đó nhấc bổng chúng tôi lên. Nước ào ạt tràn xuống như thác đổ, vừa kịp định thần thì chúng tôi đã nằm phơi bụng trong rổ. Nhanh như chớp, anh Lóc Cửng ngã người ra sau lấy đà, phóng nhanh xuống nước, lặn mất tăm. Tôi với thằng Bã Trầu cố vùng vẫy nhưng vì sức yếu nên không thể nào thoát ra được. Đám trẻ cười lên hô hố khi thấy tôi giãy giụa trong rổ, còn thằng Bã Trầu thì nằm im chịu trận. Cậu bé mắt hí (sau này là chủ của tôi) khum hai tay vớt tôi lên, chậm rãi bỏ vào lọ thủy tinh. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn rõ thế giới trên mặt đất đến vậy. Cậu bé mũm mĩm nắm đuôi thằng Bã Trầu một cách thô bạo.
- Cá bã trầu.
Đám trẻ không mảy may nhìn tới. Cậu bé sún răng búng tay vào lọ thủy tinh, trợn mắt nhìn tôi, nói vọng lại.
- Văng nó xuống nước đi!
Thằng Bã Trầu được thả rơi tự do xuống nước. Nó đã không lủi đi ngay như anh Lóc Cửng. Nó ngước mặt lên nhìn tôi với đôi mắt rưng rưng như chờ đợi giây phút đám trẻ trả tôi về với đồng nước mênh mông. Đám trẻ đã leo lên bờ mà thằng Bã Trầu cứ nhìn theo tôi mãi. Lúc đó tôi đã không rơi giọt nước mắt nào. Dòng dõi cá chọi bất khuất không cho phép tôi làm điều đó.
Từ lúc bị nhốt trong lọ, tôi cứ mơ được trở lại quê nhà, được gối đầu vào lòng mẹ, được nghe tiếng thằng Bã Trầu lải nhải bên tai. Giá như tôi không có vẻ lộng lẫy và máu hiếu chiến thì chắc gì tôi đã bị bắt. Giờ tôi chẳng phải đi kiếm ăn từng bữa. Ngày nào cậu chủ cũng mang đầy ắp đồ ăn đến cho tôi. Và cậu cũng “thả” tôi vào những chiến trường khốc liệt, trong tiếng hò reo của đám trẻ. Những trận đánh dù thắng hay thua cũng khiến tôi thương tích đầy mình, suốt ngày buốt nhức.
Đêm về, mấy gã Thạch Sùng cứ đứng lăm le quanh miệng lọ, chờ “câu” tôi cho bằng được. Đến bây giờ, tôi mới hiểu hết nỗi khổ của cụ tổ. Tôi không biết mình có may mắn thoát khỏi đây như cụ tổ đã từng làm được không. Tiếc là cụ chỉ để lại lời căn dặn, chứ không nói phải làm thế nào mới thoát được khỏi đây.
Mùa hè kết thúc. Cậu chủ trở lại trường, tôi bị lãng quên trong góc bếp. Nước trong lọ đục mò, bốc mùi hôi thối. Từ chàng thanh niên khỏe mạnh, lực lưỡng, giờ đây, tôi trở nên gầy gò, hốc hác trông không khác gì bộ xương di động. Vây của tôi bắt đầu nhạt màu rồi từ từ thối rữa. Mấy gã Thạch Sùng không thèm đoái hoài đến tôi nữa. Một sáng, thấy tôi thoi thóp, lờ đờ trên mặt nước. Mẹ cậu chủ mới gọi với lên nhà.
- Cu Bi ơi! Con cá thối đuôi, sắp nằm ngửa bụng rồi nè.
Cậu chủ vội chạy xuống, thay nước, tìm giun bỏ vào nhưng tôi đã không còn sức để ăn nữa. Cậu chủ đi tới đi lui.
- Tính làm sao giờ mẹ?
- Hay là con đem thả nó đi.
Cậu chủ xách tôi chạy ra bờ ruộng rồi nhẹ nhàng thả tôi xuống nước. Tôi chìm dần mà mắt vẫn cố tìm thằng Bã Trầu. Từng dòng nước mát lành tưới tắm da thịt, tôi nghe rõ bên tai mình những âm thanh quen thuộc. Tôi cố bơi vào trong cỏ rồi thiếp đi lúc nào không hay…
Tôi không biết mình đã mê man ở gốc cỏ bàng bao lâu. Chỉ biết khi tỉnh dậy, tôi thấy mình không còn đau nhức, những vết thương cũng thưa thớt dần. Tôi chậm rãi bơi ra khỏi bụi cỏ, ngắm nhìn những đường đi lối lại, những cư dân hiền hậu và cả những bụi rong mềm mại trôi lững lờ trong nước. Tôi ngoái đầu nhìn lại đồng cỏ bàng rồi bơi thẳng về nhà. Lúc đó tôi mới nhận ra con đường háo hức nhất đời mình chính là con đường về nhà. Tôi bần thần đứng trước nhà cũ. Ba mẹ đã không còn, anh em cũng tứ tán mỗi người một phương. Giá như tôi có thể bé lại như ngày xưa để được sống trong vòng tay chở che của ba mẹ…
Tôi mang thân thể nhiều thương tích, đến dập đầu tạ tội với tổ tiên. Rong rêu đã bám đầy dòng chữ trên cửa hang, tôi miết môi mình dọn sạch mớ rong rêu cứng đầu. Lời dặn của cụ tổ hiện ra lấp lánh như chứa đựng bao nhiêu buồn thương. Tôi quyết định ở lại canh giữ từ đường, để kể tiếp những gì tổ tiên muốn nói…/.
Nguồn Long An: https://baolongan.vn/lia-thia-khong-quen-chau-a196197.html