Lênh đênh kiếp thương hồ
'Đời nào vui bằng đời thương hồ. Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông…'. Câu hát nghe chừng lãng mạn một thời của khách thương hồ, nhưng nay đượm buồn bởi những đổi thay của dâu bể cuộc đời…
Theo khắp dòng châu thổ Cửu Long
Ánh bình minh dần ló dạng, chợ nổi Vĩnh Phong, xã Vĩnh Phong cũng đã nhóm họp rôm rả tự khi nào. Ông Tâm (Nguyễn Văn Tâm), quê gốc ở Hậu Giang cũ, đang cùng vợ loay hoay xếp hàng hóa xuống ghe để chuẩn bị theo dòng Chắc Băng xuôi về tận miệt Cà Mau… Trong khi đó, một số ghe hàng khác thì chuyển các loại trái cây, rau củ từ ghe lên bến, rồi lại lấy những mặt hàng khác xuống ghe ngược xuôi tứ xứ.

Thương hồ xuôi ngược khắp miền châu thổ Cửu Long. Ảnh: PHẠM HIẾU
Nhanh tay xếp mớ trái cây, ông Tâm hồ hởi, bản thân cũng không nhớ đã đến rồi đi ở chợ nổi Vĩnh Phong này bao nhiều lần và đã bao lâu, có thể 5 - 7 năm trước hay thậm chí còn lâu hơn nữa. Chỉ nhớ lúc chợ nổi Cái Răng, rồi Ngã Năm đông nghẹt ghe xuồng, vợ chồng ông Tâm thử vận sang miệt Kiên Giang (tỉnh An Giang mới ngày nay) bán thử, rồi mần ăn được. Rồi cứ vậy, theo mùa vợ chồng ông lại chở những nông sản từ nơi khác đến bán, sau đó lấy hàng ở địa phương bán cho nơi khác. Cứ như thế, cuộc đời những khách thương hồ như ông liên tục xoay vần theo những chuyến hàng, từng con nước lớn ròng từ năm này qua năm khác trên khắp dòng châu thổ Cửu Long.
Ông Tâm bảo, mấy chục năm làm khách thương hồ, hạnh phúc nhất là có được 2 đứa con ngay trên sông nước. Con trai ông đặt tên Giang, con gái tên Thủy như nhắc nhớ về một kỷ niệm đẹp của cuộc đời. “Giờ chúng nó ngoài 30 tuổi hết rồi, cũng dựng vợ gả chồng xong, có công việc ổn định trên bờ nên giờ vợ chồng tôi không còn nhiều lo lắng”, ông Tâm nói.
Theo ông Tâm, cuộc sống trên sông có bất tiện, vật chất không đủ đầy như trên bờ, nhưng tình nghĩa thì lúc nào cũng đong đầy như con nước lớn của dòng Cửu Long vậy… Ông nói, cái vui nhất của đời thương hồ là sau một ngày mệt nhoài với việc mua bán mưu sinh, khi chợ nổi đã thưa người, vài ba chiếc ghe cùng neo chung bến đợi. Câu vọng cổ trong bài “Tình anh bán chiếu” khi đó cũng cất lên như trút hết bao lo toan của cuộc sống thương hồ mà hòa với ánh trăng, mà bầu bạn. Còn các bà vợ thì chủ đề là chuyện con cái ở quê, những dự định mua đất để có chỗ dựng vợ gả chồng khi chúng dần đến tuổi cập kê… Và có cả câu chuyện chia tay với bạn hàng, giã từ đời sông nước. Nhiều người bảo không đành, nhưng âu đó cũng là một phần của cuộc sống.
Thấm thía nỗi niềm của kiếp thương hồ
“Nói thì nghe lãng mạn, chứ khách thương hồ giờ buồn lắm chú ơi”, ông Tâm trầm giọng. Rồi ông trải lòng, nào là chuyện “ăn hàng” bằng ghe không còn như trước vì giờ hầu hết vận chuyển bằng xe tải; nông sản rớt giá, trong khi giá nhiên liệu cao… khiến nhiều người bỏ nghề làm việc khác. Bởi vậy chỉ có những ai đã từng lênh đênh theo ghe mới thấm thía nỗi niềm của kiếp thương hồ ngày nay…
Dăm ba câu chuyện, một vài tuần trà cũng đến lúc vợ chồng ông Ba Tài bắt đầu cho cuộc hành trình mới. Cái máy dầu cũ kỹ nhả từng ngụm khói đen kịn đẩy chiếc ghe bầu của vợ chồng ông Tâm rời bến. Chiếc ghe như căn nhà di động cứ xa dần rồi khuất dạng vào không gian rộng lớn, để lại phía sau là dư âm của kiếp thương hồ trước những thay đổi cuộc sống. Bởi mấy ai có ngờ rằng, chỉ mới đây không lâu, ở miền Tây những cái tên nổi tiếng như: Chợ nổi Cái Bè, Cái Răng, Long Xuyên, Ngã Năm, Trà Ôn, Ngan Dừa, Cà Mau, Vĩnh Thuận, Rạch Sỏi... ngày ngày nườm nượp khách nhưng nay đã thưa dần.
Chúng tôi cũng rời chợ nổi Vĩnh Phong, về thủ phủ mía đường U Minh Thượng một thời - nơi ở dọc các con kênh vẫn còn những chiếc ghe bầu ngày nào chở mía U Minh ra dòng Cái Lớn, rồi xuôi về các nhà máy đường ở Long Thạnh hay tận Vị Thanh. Thế nhưng, nay chúng đã nằm yên dưới dòng kênh đỏ quạch nước của rừng tràm, chỉ nhô lên hơn nửa phần thân rệu rã.
Dừng trước nhà ông Hai Tấn, ngụ xã U Minh Thượng để hỏi về nghề mía, vận chuyển mía ngày xưa, ánh mắt ông Hai như sáng lên, rồi nhìn phía mé kênh - nơi chiếc ghe cũ nằm im mãi mãi dưới dòng nước. Dù đã gần cái tuổi bát thập, mái tóc bạc trắng, dáng người còm nhom nhưng trong đôi mắt vẫn ánh lên cái “thần” của một đời ngược xuôi sông nước. Ông nói, chiếc ghe dưới bến là người bạn tri kỷ, cùng thuở vàng son lúc ông còn trai tráng. Trên ghe ấy, ông từng chở mía vùng này đi khắp các nhà máy đường trong vùng, rồi khi mía rớt giá, ông quay sang chở khóm Ba Đình ra chợ nổi Vĩnh Thuận (nay là Vĩnh Phong) bán. Nhiều khi hứng chí, ông băng băng một mạch đến tận chợ nổi Cái Răng ở Cần Thơ cho thỏa chí tang bồng sông nước… Ông bảo, chiếc ghe từng là mái nhà, là bếp lửa, là nơi con ông cất tiếng khóc chào đời, rồi cũng là nơi chúng rời đi, lên bờ sinh sống; rồi cách nay tầm chục năm cũng đến lượt ông không còn sức để từng đêm thức trắng, lèo lái chiếc ghe qua từng con rạch nhỏ, đổ ra sông Cái Lớn.
Khách thương hồ là vậy, quen sống theo mùa, quen đọc thời tiết bằng mây. Dù lo, dù biết tương lai khó lường, vậy nhưng với những người còn sức vẫn không thể rời đi. Bởi nghề này đã in vào mỗi nếp nhăn, nốt chai sần trên đôi bàn tay, làm sao bỏ được. Còn với những người phải rời đi cũng khắc khoải mãi một niềm thương nhớ.
Nguồn An Giang: https://baoangiang.com.vn/lenh-denh-kiep-thuong-ho-a462762.html