Ký ức của nữ du kích bảo vệ Thành Cổ
Ở tuổi gần thất thập, thương binh 4/4 Nguyễn Thị Trung Thành (sinh năm 1954) ở Kiệt 46, đường Kim Đồng, Phường 2, thành phố Đông Hà vẫn cần mần với nghề may vá, sửa quần áo cùng những bộn bề lo toan khi cuộc sống còn lắm khó khăn. Với bà, ký ức về những tháng năm kháng chiến khốc liệt, trong đó có 81 ngày đêm tham gia bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị vẫn luôn được gìn giữ vẹn nguyên.

Nữ thương binh Nguyễn Thị Trung Thành luôn giữ gìn những ký ức sâu đậm về những tháng năm tham gia chiến đấu -Ảnh: B.H
Chúng tôi trở lại tìm gặp nữ thương binh Trung Thành trong những ngày tháng 4 lịch sử. Đã gần 4 năm, sau khi gia đình gặp biến cố, bà Thành chuyển từ thị xã Quảng Trị ra Đông Hà sống cùng con gái. Hơn 20 năm một mình nuôi các con ăn học, lại bị bệnh tật hành hạ nhưng bà Thành vẫn giữ “tinh thần thép” để vượt qua sóng gió. Bà Thành quê ở Gia Độ, xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong, tham gia làm giao liên của xã từ khi mới 14 tuổi.
Đến năm 1972 (18 tuổi), bà thuộc đội du kích thôn Gia Độ anh dũng và can trường. Bà đi theo chiến trường rồi đưa thương binh trở ra Vĩnh Linh, tải lương thực cho đơn vị bộ đội chiến đấu. Nhớ về ngày Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng (1/5/1972), bà Thành kể: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/3/1972, bộ đội ta nổ súng mở màn cuộc tiến công trên chiến trường Trị Thiên. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, chỉ sau hai ngày, lớp vỏ cứng vòng ngoài tuyến phòng thủ của địch đã bị đập vỡ; ngày 2/4/1972, toàn bộ quân địch trên tuyến Cửa Việt - Động Toàn bị quét sạch. Sau 5 ngày, hai huyện Cam Lộ và Gio Linh được giải phóng hoàn toàn.
Giới tuyến quân sự tạm thời sông Bến Hải không còn là nỗi đau chia cắt đất nước, vùng giải phóng Quảng Trị mở rộng từ miền Tây đến vùng ven biển đã nối liền với Vĩnh Linh, Quảng Bình, với hậu phương lớn miền Bắc. Ngày 28/4/1972, từ bàn đạp Cửa Việt, các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, các phân đội hỏa lực, dân quân tự vệ phối hợp với quân chủ lực cánh đông tiến công đột phá vào hệ thống phòng thủ của địch dọc theo vùng đồng bằng ven biển Triệu Hải, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thọc sâu, vu hồi, đánh hiểm vào sau lưng địch, tạo điều kiện cùng quân và dân toàn mặt trận kết hợp tiến công nổi dậy, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.
Từ đầu tháng 6/1972, Mỹ - ngụy huy động cả lực lượng tổng dự bị, sử dụng hỏa lực tối đa, mở các cuộc hành quân lớn điên cuồng phản kích hòng tái chiếm vùng giải phóng, mà trọng điểm là thị xã Quảng Trị. Đế quốc Mỹ huy động cao nhất tiềm lực khoa học kỹ thuật quân sự, kết hợp đánh phá tàn bạo. Trong bối cảnh đó, bộ đội bảo vệ Thành Cổ phải chiến đấu dài ngày trong điều kiện thiếu ăn, thiếu thuốc men, tiết kiệm từng viên đạn giữa vòng vây của địch, thương vong ngày càng lớn...
Bộ đội từ phía Bắc được chi viện liên tục cho chiến trường trong 81 ngày đêm máu lửa ấy. Bà Thành cùng với du kích Gia Độ và nhiều địa bàn ở Triệu Phong can trường vào nhiệm vụ liên lạc, dẫn đường cho bộ đội vào chiến đấu bảo vệ Thành Cổ. Bom đạn ác liệt, hy sinh rất nhiều nhưng khát vọng hòa bình cháy lên trong tim mỗi người dân yêu nước.
Đến tháng 10/1972, bà Thành bị thương. Trong khi làm nhiệm vụ được Đội du kích Gia Độ điều động lên tuyến trước, tiến vào chốt Long Quang (xã Triệu Trạch) để kết hợp với bộ đội chiến đấu đánh địch, bà Thành đã bị pháo kích, bị thương nặng ở vùng đầu, vùng bụng, bả vai và vào trán. Sau đó bà được đồng đội đưa về tuyến sau điều trị. Khi sức khỏe ổn, bà Thành nhanh chóng quay lại đơn vị chiến đấu. Một lần khác, bị địch bao vây, trải qua nhiều ngày bị đói, khát, thương tích, bà Thành và đồng đội đã kiệt sức. Trong tình huống gian nguy đó, một đơn vị bộ đội thuộc K14 đã phá được vòng vây của địch.
Thời điểm đó, nhìn thấy đồng chí chính trị viên Bùi Xuân Lưỡng, bà Thành thều thào: “Chú ơi, cháu đói quá”. Anh Lưỡng đã lục túi tìm được nửa miếng lương khô còn lại sau nhiều ngày chiến đấu đưa cho cô du kích trẻ. Miếng lương khô đó đã giúp bà vượt qua cơn đói. Đến nay, họ vẫn giữ liên lạc với nhau. “Ông Lưỡng nhiều lần về thăm chiến trường xưa Quảng Trị, gặp anh, chị, em chiến đấu một thời, vui lắm”, bà Thành xúc động chia sẻ.
Với chúng tôi, sau mỗi lần gặp gỡ những chiến sĩ du kích một thời không tiếc máu xương vì độc lập dân tộc đều đọng lại những cảm xúc vinh dự, tự hào, nhất là trong những ngày tháng Tư này.