Không để hồ, đập từ 'lá chắn' hóa 'quả bom' nổ chậm

Các đập, hồ chứa không chỉ là công trình thủy lợi mà còn giữ vai trò 'lá chắn' bảo vệ dân cư khi xảy ra bão lũ. Tuy nhiên, do hạ tầng xuống cấp, hệ thống thông tin - dự báo chưa đồng bộ đang biến vai trò 'lá chắn' của các hồ, đập thành 'quả bom nước', đe dọa an toàn của người dân trong bối cảnh thiên tai phức tạp.

Không để hồ, đập từ “lá chắn” hóa “quả bom” nổ chậm. Ảnh ST

Không để hồ, đập từ “lá chắn” hóa “quả bom” nổ chậm. Ảnh ST

“Điểm mù” trong phối hợp quản lý hồ, đập và dự báo

Theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường - NNMT), cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích trữ khoảng 15 tỷ m³, bảo đảm nước tưới cho gần 1,1 triệu ha đất nông nghiệp và cấp khoảng 1,5 tỷ m³ nước cho sinh hoạt, công nghiệp và các ngành kinh tế khác.

Tuy nhiên, nhiều đập đã xuống cấp, khả năng điều tiết lũ không còn đáp ứng yêu cầu, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.

Thông tin tại Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” do đơn vị phối hợp tổ chức, ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhấn mạnh bối cảnh thời tiết năm nay “dị thường và cực đoan” với chuỗi bão số 5, 9, 10, 11 di chuyển rất nhanh, quỹ đạo khác hẳn quy luật nhiều năm, mưa lớn, mưa cực đoan lặp đi lặp lại, nhiều nơi ghi nhận giá trị “lịch sử”. Trong bối cảnh đó, câu chuyện quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa đứng trước yêu cầu hoàn toàn mới.

Theo các chuyên gia, điều đáng lo ngại là phần lớn các đập này nằm ở thượng nguồn, cộng đồng dân cư hoặc những khu vực đông người sinh sống lại ở khu vực hạ du. Do đó, khi các hồ, đập xảy ra sự cố sẽ có nguy cơ gây thiệt hại rất lớn cho cho người và tài sản.

TS. Nguyễn Văn Mạnh (Viện Quy hoạch Thủy lợi), nhấn mạnh, trong khi hạ tầng thủy lợi còn nhiều bất cập, tình trạng thiên tai thất thường, đặc biệt là tình hình mưa lũ cực đoan tiếp tục đặt ra sức ép lớn, buộc ngành thủy lợi phải cải thiện năng lực dự báo, giám sát và điều hành.

“Chất lượng dự báo vẫn phụ thuộc lớn vào dữ liệu mưa và kinh nghiệm của chuyên gia, khiến sai số về đỉnh lũ và thời gian lũ còn xảy ra ở một số trận cụ thể. Các mô hình hiện hành cũng được đánh giá là đã cũ, cần nâng cấp để bắt kịp tốc độ biến đổi khí hậu và yêu cầu vận hành ngày càng khắt khe” - ông Mạnh thông tin.

Xây dựng dữ liệu lớn gắn với ứng dụng công nghệ vào quản lý hồ, đập. Ảnh ST

Xây dựng dữ liệu lớn gắn với ứng dụng công nghệ vào quản lý hồ, đập. Ảnh ST

Trên thực tế, thách thức lớn nhất hiện nay trong việc đưa ra dự báo, cảnh báo thiên tai là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ được xây dựng từ năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ.

“Hầu hết các địa phương vẫn quản lý thủ công bằng Excel hoặc tài liệu rời rạc; dữ liệu không được cập nhật, liên thông, khiến việc tổng hợp phục vụ chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu và lạc hậu; nhiều hồ thiếu trạm mưa trên toàn lưu vực, số liệu quan trắc không ổn định” - Ông Phan Tiến An - Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi) cho biết.

Phối hợp vận hành liên hồ vẫn là “điểm mù” lớn: hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực. Quy trình vận hành nhiều hồ đã lạc hậu nhưng chưa được cập nhật vì thiếu công cụ, thiếu dữ liệu thời gian thực.

Ông Phan Tiến An

Từ thực tiễn tại địa phương, đại diện Sở NNMT tỉnh Hà Tĩnh cho biết, toàn tỉnh hiện có 348 hồ chứa thủy lợi với tổng dung tích khoảng 1,6 tỷ m³ nước cùng 86 đập dâng, phục vụ tưới tiêu cho hơn 65.000 ha đất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp và phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn.

Các hồ lớn như Ngàn Trươi, Kẻ Gỗ… đóng vai trò điều tiết quan trọng, góp phần bảo đảm nguồn nước cho sản xuất và dân sinh. Tuy nhiên, phần lớn hồ đập được xây dựng từ nhiều năm trước, thiết bị quan trắc còn thiếu, dữ liệu quản lý phân tán, chưa được số hóa và chia sẻ kịp thời. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải ứng dụng công nghệ số và xây dựng hệ thống dữ liệu thông minh trong quản lý, giám sát và vận hành hồ chứa.

“Chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ hiện đại trong vận hành, đảm bảo an toàn đập, hồ chứa nước không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật mà còn là chiến lược lâu dài, góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước, an toàn dân cư, phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu” - đại diện Sở cho biết.

Xây dựng dữ liệu lớn gắn với ứng dụng công nghệ vào quản lý

Với hàng loạt bất cập, tồn tại trong quản lý công trình thủy lợi tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn cho người dân trong điều kiện thiên tai khắc nghiệt, các chuyên gia, nhà quản lý lĩnh vực môi trường, thủy lợi cho rằng cần khẩn trương xây dựng hệ thống dữ liệu lớn, gắn với ứng dụng công nghệ tiên tiến vào quản lý hồ, đập.

Ông Phan Tiến An (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi) cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung.

Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.

“Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt” - ông An đánh giá.

Ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi

Bộ NNMT dự kiến sẽ trình Quốc hội sửa đổi Luật Thủy lợi vào giai đoạn 2027-2028 và xem xét sửa đổi, thay thế Nghị định số 114/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước sau khi tổng kết đầy đủ những diễn biến cực đoan vừa qua. Những vấn đề như cơ chế điều chỉnh mực nước trước lũ, vận hành linh hoạt, nâng dung tích phòng lũ, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu và phần mềm dùng chung sẽ được nghiên cứu để ban hành...

TS. Hà Ngọc Tuấn, Trưởng đại diện Weather Plus tại Việt Nam cho rằng, cách vận hành truyền thống chỉ dựa vào một điểm khống chế mực nước ở hạ du đã từng hiệu quả trong nhiều thập kỷ, nhưng nay không còn phù hợp khi biến đổi khí hậu làm cho quy luật mưa lũ thay đổi. Thay vào đó là vai trò ngày càng quan trọng của dữ liệu lớn cũng như ứng dụng công nghệ vào quản lý công trình thủy lợi.

Hiện, Weather Plus phối hợp xây dựng một hệ thống gồm ba trụ cột: mạng lưới quan trắc mưa chuyên dụng trên lưu vực; các mô hình dự báo mưa và dòng chảy được hiệu chỉnh riêng cho từng khu vực; và phần mềm hỗ trợ vận hành hồ chứa.

Lấy ví dụ một đợt lũ gần đây trên lưu vực sông Chu, TS. Tuấn cho biết, nhờ mạng lưới quan trắc mưa lắp đặt dày hơn và mô hình dự báo được thiết kế riêng cho khu vực này, nhóm của ông đã đưa ra hai kịch bản lũ về hồ với đỉnh lũ dự kiến khoảng 6.000 m³/s và tổng lượng nước về khoảng 700 triệu m³.

Thực tế sau đó gần như trùng với kịch bản cao, giúp các nhà máy thủy điện và hồ chứa chủ động cắt lũ, tránh để nước dâng vượt ngưỡng an toàn, bảo vệ được cả công trình và vùng hạ du. Hệ thống dự báo được đánh giá đạt tỷ lệ thành công trên 80% với các đợt mưa lớn ở Bắc Trung Bộ trong mùa lũ vừa qua.

PGS,TS Hoàng Thái Đại. Ảnh: Tùng Đinh

PGS,TS Hoàng Thái Đại. Ảnh: Tùng Đinh

Chung quan điểm, PGS,TS Hoàng Thái Đại (Hội Thủy lợi Việt Nam) nhấn mạnh, công nghệ hiện nay rất phát triển, phần mềm tốt, thiết bị hiện đại, nhưng dữ liệu vẫn là “tài sản cốt lõi” và đang là điểm yếu nhất. Dữ liệu quan trắc, đặc biệt là dữ liệu từ mạng quan trắc khí tượng thủy văn quốc gia và mạng trạm của các công ty thủy lợi, vẫn còn phân tán, chưa được chuẩn hóa hoặc liên thông.

Tình trạng phân bố trạm “nơi dày đặc, nơi thưa thớt” chưa được xử lý triệt để. Do đó, muốn sử dụng công nghệ hiệu quả, theo ông, trước hết phải giải quyết vấn đề dữ liệu và hạ tầng quan trắc.

Trước những băn khoăn về khả năng vận hành, ứng dụng công nghệ mới vào quản lý hồ, đập, PGS,TS Hoàng Thái Đại cũng cho rằng năng lực của đội ngũ kỹ sư, chuyên gia Việt Nam hoàn toàn không thua kém các nước phát triển. Nhiều cán bộ ngành thủy lợi đã được đào tạo ở nước ngoài, nắm vững công nghệ hiện đại và thậm chí có thể giảng dạy lại cho chính các đối tác quốc tế.

“Việt Nam có đủ nguồn lực chất lượng cao để làm chủ các công nghệ tính toán, mô phỏng và vận hành trong lĩnh vực tài nguyên nước và hồ đập” - PGS,TS Hoàng Thái Đại cho biết.

N.LỘC

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/khong-de-ho-dap-tu-la-chan-hoa-qua-bom-no-cham-44540.html