Hành trình chữa ung thư: Cần khởi đầu đúng chỗ
Dù y học hiện đại đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong điều trị ung thư, nhưng đến nay, vẫn không ít người bệnh tìm đến thầy lang để cắt thuốc nam, thuốc bắc vì thiếu thông tin hoặc chưa hiểu đúng về bệnh. Hệ quả là cơ hội sống bị bỏ lỡ, bệnh tiến triển nặng, thậm chí dẫn tới tử vong. Ghi nhận của chúng tôi tại Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên là hồi chuông cảnh tỉnh.

Chụp cộng hưởng từ (MRI) - một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hiện đại, giúp phát hiện sớm và theo dõi hiệu quả điều trị ung thư.
Đặt niềm tin sai chỗ
Anh Nguyễn Đình H., 47 tuổi, xã Trung Lương (Định Hóa), phát hiện bị u gan từ tháng 8-2024. Khi ấy, khối u đã khá lớn. Dù được bác sĩ Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tư vấn mổ cắt hoặc nút mạch và anh đã đồng ý làm hồ sơ bệnh án, nhưng sau đó, anh em họ hàng lại khuyên chuyển sang dùng thuốc nam nên anh đã bỏ viện về nhà.
Anh H. cho biết: Tôi uống nhiều loại thuốc nam của các thầy lang trong và ngoài tỉnh, có nơi chỉ 200-300 nghìn đồng/10 ngày, nhưng cũng có chỗ phải trả tới 9 triệu cho 19 ngày thuốc. Dù bệnh không thuyên giảm, tôi vẫn tiếp tục uống vì "không thấy xấu đi". Nghe ai mách chỗ nào hay, tôi lại tìm đến. Tuy nhiên, khoảng một tháng trước, tôi bắt đầu đau nhiều, bụng chướng căng nên phải nhập viện. Sau 10 ngày điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, sức khỏe của tôi cải thiện rõ rệt. Giờ tôi chỉ tin bác sĩ thôi.
Một trường hợp khác là ông Đào Anh D., 57 tuổi, ở huyện Đại Từ, được chẩn đoán u phổi. Ông cũng đã từ chối nằm viện để về nhà cắt thuốc nam của một thầy lang ở Vĩnh Phúc. Sau 12 ngày uống thuốc, ông bắt đầu cảm thấy khó chịu nhưng được thầy lang trấn an nên ông vẫn tiếp tục sử dụng. Đến ngày thứ 20, bụng ông chướng căng, khó chịu, gia đình đã phải đưa ông đi cấp cứu. Rất may, ông được điều trị kịp thời và qua cơn nguy kịch.

Bác sĩ khám cho bệnh nhân ung thư vú.
Còn bà Nguyễn Thị P., 67 tuổi ở TP. Thái Nguyên, khi thấy nổi hạch ở cổ đã chủ quan không đi khám, mà tự mua tam thất về uống với suy nghĩ để “tiêu u”. Chỉ đến khi hạch to, ngực có u, gây đau, bà mới đến viện thì được chẩn đoán ung thư vú, đã di căn ra 7 vị trí.
Những trường hợp như anh H., ông D., bà P. trên thực tế không phải là ít. Hệ quả là bệnh từ giai đoạn sớm chuyển sang muộn, đánh mất đi cơ hội có thể điều trị hiệu quả hơn.
Đừng để sai lầm làm lỡ cơ hội
Tiến sĩ, bác sĩ Vi Trần Doanh, Giám đốc Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, cho biết: Ung thư là bệnh lý đặc thù, mỗi ca bệnh là một thực thể sinh học riêng biệt. Không thể điều trị theo kiểu “truyền miệng”, kể bệnh bốc thuốc, không có bằng chứng khoa học rõ ràng mà đạt được hiệu quả. Bác sĩ cũng khẳng định cho đến nay, chưa có bài thuốc dân gian, cổ truyền nào chữa được bệnh ung thư.
Điều trị ung thư dựa vào y học bằng chứng, với sự tiến bộ của khoa học, các phác đồ điều trị ung thư hiện nay không thể áp dụng chung cho mọi bệnh nhân, mà phải được cá thể hóa. Để xây dựng phác đồ, bác sĩ cần có chẩn đoán đầy đủ: loại ung thư, giai đoạn bệnh, đặc điểm mô bệnh học, sinh học phân tử và đặc tính di truyền của khối u (nếu có).

Sau nhiều tháng điều trị thuốc nam không mang lại hiệu quả mà còn khiến bệnh nặng hơn, nhiều bệnh nhân đã quay lại điều trị tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
Ngay cả khi hai bệnh nhân cùng mắc một loại ung thư ở cùng giai đoạn, phác đồ điều trị vẫn có thể khác nhau do khác biệt về đặc tính sinh học và gen của khối u. Vì vậy, không thể so sánh điều trị giữa các bệnh nhân ung thư, dù tên bệnh và giai đoạn bệnh có thể giống nhau. Đây là điều mà các thầy lang không thể làm được.
Bác sĩ Vi Trần Doanh nhấn mạnh: Có rất nhiều bệnh nhân đến bệnh viện khi bệnh còn ở giai đoạn sớm, nhưng họ không điều trị ngay. Họ chọn uống các bài thuốc lá, đắp thuốc, ăn kiêng hà khắc hoặc tin theo những lời quảng cáo vô căn cứ. Khi quay lại bệnh viện, bệnh đã tiến triển sang giai đoạn muộn hơn, điều trị trở nên phức tạp và kém hiệu quả hơn rất nhiều.
Không những vậy, theo bác sĩ Doanh, việc chậm trễ còn khiến thể trạng bệnh nhân suy kiệt, khó theo đuổi với hóa trị, xạ trị hoặc các liệu pháp mới như điều trị miễn dịch, điều trị đích… Trong khi đó, những tiến bộ của y học hiện đại ngày nay, đã giúp nhiều người mắc ung thư có thể sống lâu, sống khỏe, sống có chất lượng cao hơn trước rất nhiều.
Thực tế đã chứng minh, có những bệnh nhân ung thư vú, ung thư phổi, đại trực tràng ở giai đoạn 4 nhưng vẫn sống thêm 5-10 năm, thậm chí lâu hơn. Vấn đề nằm ở việc phát hiện và điều trị đúng lúc, đúng cách. Đó là điều mà các thầy lang không thể làm được”.
Ung thư không phải là án tử
Nếu như trước đây, ung thư từng được xem là “tứ chứng nan y” - đồng nghĩa với một bản án tử, thì ngày nay, nhờ sự phát triển vượt bậc của y học, căn bệnh này đã có thể được kiểm soát, thậm chí chữa khỏi nếu phát hiện sớm và điều trị đúng cách. Quan niệm của xã hội về ung thư cũng dần thay đổi: không còn là tuyệt vọng, mà là một hành trình có thể đồng hành cùng y học để giành lại sự sống.

300 giường bệnh tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên luôn trong tình trạng kín chỗ.
Tại Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, số lượng giường bệnh hiện tăng gần gấp đôi trong vòng 5 năm, từ 160 lên 300 giường và luôn kín chỗ, cho thấy số ca mắc ung thư ngày càng tăng. Nhưng điều đáng mừng là số lượng bệnh nhân chủ động đến khám sàng lọc phát hiện sớm và điều trị tại bệnh viện cũng tăng lên, cho thấy sự thay đổi nhận thức và niềm tin của người dân vào hệ thống y tế chính thống - nơi có đầy đủ điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc và trình độ chuyên môn để can thiệp hiệu quả.
Cũng theo bác sĩ Vi Trần Doanh: Ung thư không chỉ là vấn đề của cá nhân người bệnh hay ngành y tế, mà cần cả xã hội cùng hành động. Khoảng 70% nguyên nhân ung thư đến từ môi trường ô nhiễm, thực phẩm không an toàn, thói quen trong chế biến đồ ăn, uống, thói quen hút thuốc, hóa chất tồn dư trong nông nghiệp, nguồn nước và không khí độc hại - những yếu tố cần được kiểm soát ở quy mô toàn cộng đồng.
Điều trị ung thư là một hành trình cần sự kiên trì, niềm tin đúng chỗ và đồng hành cùng bác sĩ. Đặt niềm tin vào khoa học, vào hệ thống y tế chính thống là cách người bệnh tự mở ra hy vọng cho chính mình. Bởi đôi khi, chỉ một quyết định sáng suốt cũng đủ giữ lại sự sống cho bản thân và cho những người thân yêu.