Hàng loạt vấn đề khiến lĩnh vực đóng tàu Hải quân Mỹ sa sút

Hải quân Mỹ đang đối mặt với hàng loạt thách thức trong mục tiêu mở rộng quy mô hạm đội. Đặc biệt, không vấn đề nào có thể giải quyết dễ dàng trong ngắn hạn.

Tàu sân bay USS Nimitz của hải quân Mỹ di chuyển tại căn cứ ở cảng Busan, Hàn Quốc. Ảnh tư liệu: Yonhap/TTXVN

Tàu sân bay USS Nimitz của hải quân Mỹ di chuyển tại căn cứ ở cảng Busan, Hàn Quốc. Ảnh tư liệu: Yonhap/TTXVN

Theo Business Insider (Mỹ), các chuyên gia chính sách hải quân và quốc phòng cho rằng cần khẩn trương triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, từ các nhà đóng tàu đến chính phủ, nhằm khắc phục tình trạng chậm tiến độ và đội chi phí của Hải quân Mỹ.

Phần lớn các rắc rối của Hải quân Mỹ – từ việc “nghỉ hưu” tàu chiến nhanh hơn tốc độ đóng mới, quy trình đóng tàu vừa chậm vừa đắt đỏ với chỉ vài xưởng đóng tàu thương mại, cho tới tình trạng quản lý chương trình kém hiệu quả – đều bắt nguồn từ thời điểm Chiến tranh Lạnh kết thúc. Trải qua nhiều thập niên, những vấn đề tồn đọng này không những không được giải quyết mà còn ngày càng trầm trọng, đến nay đã chạm ngưỡng cấp bách.

Lực lượng chiến đấu của Hải quân, bao gồm chiến hạm, tàu ngầm và tàu sân bay, đạt đỉnh với 568 chiếc trong giai đoạn nhiệm kỳ 2 của cựu Tổng thống Ronald Reagan. Sau Chiến tranh Lạnh, số lượng giảm dần khi Mỹ tập trung vào các cuộc chiến trên bộ ở Iraq và Afghanistan; hạm đội chạm mức thấp nhất là 271 chiếc vào năm 2015. Một năm sau, Hải quân công bố kế hoạch bổ sung 355 tàu, con số này tăng lên 381 chiếc vào năm 2023 dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Joe Biden.

Các chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) nhận định: “Bất chấp kế hoạch mở rộng hạm đội của Hải quân và nỗ lực từ lưỡng đảng cũng như nguồn tài trợ từ Quốc hội, ngành công nghiệp đóng tàu của Mỹ vẫn không thể sản xuất tàu với quy mô, tốc độ và chi phí đáp ứng nhu cầu”.

Trong số các dự án thất bại có 2 loại tàu chiến ven biển (LCS), tàu khu trục tàng hình tiên tiến mà lực lượng hải quân chỉ được trang bị ba chiếc, và tàu hộ vệ lớp Constellation vừa bị hủy bỏ.

Không một thực thể, sự cố hay chương trình riêng lẻ nào phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hơn nữa, tín hiệu nhu cầu đóng tàu mới từ Washington thay đổi thất thường, khiến các nhà đóng tàu rơi vào thế bị động không thể lập kế hoạch dài hạn. Bên cạnh đó, quy trình xác định yêu cầu và thiết kế tàu của Hải quân đôi khi dẫn đến tình trạng các tàu chiến không đạt kỳ vọng, bị chậm tiến độ nhiều năm và đội chi phí vượt xa dự toán.

Hiện tại, Bộ trưởng Hải quân John Phelan, các quan chức Bộ Quốc phòng và xưởng đóng tàu tại Mỹ đang tập trung vào việc khắc phục những vấn đề này và tránh lặp lại sai lầm tương tự trong tương lai. Ngành đóng tàu là ưu tiên hàng đầu đồng thời đã nhận được rất nhiều quan tâm trong suốt năm đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Tổng thống Donal Trump.

Theo các chuyên gia CSIS, không có một giải pháp đơn lẻ nào đủ sức đảo ngược sự sa sút của ngành đóng tàu Mỹ. Bên cạnh đó, tháo gỡ từng vấn đề nền tảng riêng rẽ cũng không đồng nghĩa với cải thiện tình hình. Con đường phía trước, vì thế, đòi hỏi Hải quân, Quốc hội Mỹ và các xưởng đóng tàu phải phối hợp chặt chẽ trong quá trình dài hơi kéo dài nhiều năm.

Thực tế cho thấy, các mục tiêu này không thể hiện thực hóa nếu thiếu tàu chiến hạng nhẹ, hiệu quả, với mức giá chỉ bằng một phần nhỏ so với tàu sân bay lớp Ford hơn 13 tỷ USD hoặc tàu khu trục tên lửa dẫn đường trị giá 2 tỷ USD.

Các quan chức Hải quân ngày càng quan tâm đến phương tiện mặt nước không người lái để nhanh chóng bổ sung khả năng mới cho hạm đội. Sự kết hợp giữa các tàu không người lái cỡ lớn, trung bình và nhỏ sẽ hữu ích cho một số nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo, giám sát và trinh sát, đồng thời có thể mở rộng phạm vi hoạt động của Hải quân ở các khu vực như Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong khi vẫn đảm bảo an toàn cho thủy thủ đoàn.

Việc chế tạo các tàu tự hành không phải là trở ngại lớn đối với doanh nghiệp, song mức độ hiệu quả của chúng vẫn còn nhiều tranh cãi. Trên thực tế, những tàu không người lái đang vận hành hiện nay phần lớn chỉ đảm nhiệm vai trò trinh sát, giám sát. Dù là lĩnh vực mới nổi, nhưng tàu không người lái có thể trở thành giải pháp ngắn hạn giúp giảm áp lực lên lực lượng tàu có người lái.

Tàu ngầm tấn công hạt nhân USS Vermont của hải quân Mỹ. Ảnh tư liệu: Yonhap/TTXVN

Tàu ngầm tấn công hạt nhân USS Vermont của hải quân Mỹ. Ảnh tư liệu: Yonhap/TTXVN

Báo cáo của CSIS nêu rõ, hạm đội hiện nay của Hải quân Mỹ cũng đang phải hoạt động với cường độ cao hơn, khiến “áp lực đè nặng lên cả lực lượng tàu và thủy thủ đoàn, khi số lượng tàu bị thu hẹp nhưng lại phải triển khai thường xuyên hơn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, kéo theo nhu cầu bảo dưỡng và duy trì năng lực ở mức cao”.

Đầu năm nay, Quyền Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ khi đó là Đô đốc James Kilby đánh giá tỷ lệ sẵn sàng chiến đấu của các tàu mặt nước thuộc lực lượng chỉ đạt 68%, tàu ngầm đạt 67%. Hải quân Mỹ đặt mục tiêu nâng tỷ lệ này lên 80% vào năm 2027.

Sự chậm trễ trong bảo trì tàu là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ này. Theo một phân tích mới của Văn phòng Ngân sách Quốc hội, hệ thống xưởng đóng tàu đang quá tải khiến năng lực duy trì hạm đội của Mỹ bị bào mòn, với thời gian sửa chữa nhiều trường hợp kéo dài gần gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi so với dự tính. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: tuổi trung bình của các tàu Hải quân hiện nay cao hơn so với trước đây và cần nhiều công việc bảo trì hơn, đồng thời phạm vi bảo trì thường lớn hơn dự kiến.

Việc duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu của các tàu chiến cũ đã là một thách thức, nhưng mục tiêu đóng mới tàu của Hải quân Mỹ còn gặp nhiều trở ngại hơn. Thời gian thi công kéo dài, các chương trình trọng điểm liên tục bị đình trệ và chi phí đội lên đã cản trở tiến độ.

Trong báo cáo công bố đầu năm nay, Văn phòng Kiểm toán Chính phủ Mỹ (GAO) cho biết, tính đến mùa Thu năm 2024, có tới 37 trong số 45 tàu chiến thuộc lực lượng tác chiến đang trong quá trình đóng đã bị chậm tiến độ.

GAO quy trách nhiệm cho nhiều yếu tố, trong đó có việc Hải quân đặt nặng giá thành trong hợp đồng thay vì tốc độ bàn giao, chi phí đóng tàu tăng, cùng với những thay đổi về thiết kế và tính năng trong quá trình thi công. Chương trình tàu khu trục lớp Constellation vừa bị hủy bỏ là minh chứng rõ nét cho thấy các thay đổi thiết kế có thể làm một dự án thất bại, khi vừa gây chậm tiến độ vừa đẩy chi phí lên mức khó kiểm soát.

Về mặt công nghiệp, ngành đóng tàu đã thu hẹp đáng kể và hiện chủ yếu phục vụ cho Hải quân và Lực lượng Tuần duyên, cùng một số ít tàu thương mại. Phần lớn hoạt động đóng tàu thương mại đã chuyển sang các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, nơi chi phí đóng tàu thấp hơn.

Trước thực trạng này, Washington, Hải quân Mỹ và các doanh nghiệp đóng tàu đang triển khai nhiều hướng giải quyết. Hàng chục tỷ USD được rót vào nền tảng công nghiệp, trong đó trọng tâm lớn là các chương trình tàu ngầm, đồng thời thúc đẩy những sáng kiến đào tạo thế hệ lao động kế cận. Bên cạnh đó, hiện đại hóa các xưởng đóng tàu - bao gồm tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI) và robot - cũng được xem là ưu tiên nhằm kéo giảm chi phí.

Những vấn đề đang bào mòn ngành đóng tàu Mỹ có tính chất hết sức phức tạp. Các tác giả của CSIS viết: “Không tồn tại một chính sách đơn lẻ nào có thể giải quyết toàn bộ bài toán này”.

Trong phần kết luận, các chuyên gia CSIS đề xuất duy trì sản xuất liên tục các tàu chiến cho Hải quân Mỹ thông qua hợp đồng nhiều năm, giúp ổn định tiến độ dự án, ngân sách và lực lượng lao động.

Một hướng đi khác là tăng cường hợp tác với các đối tác và đồng minh của Mỹ – điều mà Washington đang theo đuổi. Các xưởng đóng tàu Hàn Quốc, thuộc nhóm hiện đại và sôi động bậc nhất thế giới, hiện đảm nhận ngày càng nhiều công việc bảo dưỡng tàu cho Hải quân Mỹ.

Hà Linh/Báo Tin tức và Dân tộc

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/quan-su/hang-loat-van-de-khien-linh-vuc-dong-tau-hai-quan-my-sa-sut-20251228212549953.htm