Hạ tầng vùng nguyên liệu: 'Đòn bẩy' giúp HTX nông nghiệp tham gia sâu chuỗi giá trị
Với tổng vốn đầu tư 440 tỷ đồng từ Bộ NN&MT, Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu giai đoạn 2022–2025 đã tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển hợp tác xã nông nghiệp, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, hình thành các vùng sản xuất tập trung, hiện đại, phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Sáng 19/12 tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Tổng kết Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025 do Bộ NN&MT chủ trì.
Phát biểu tại hội nghị, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, sau 4 năm triển khai, Đề án đã tạo chuyển biến rõ nét trong việc hình thành và mở rộng quy mô vùng nguyên liệu tại 11 tỉnh tham gia. Tổng diện tích vùng nguyên liệu hiện đạt gần 169.800 ha, tăng 20% so với trước khi triển khai; trong đó, khoảng 121.000 ha đã có liên kết tiêu thụ với doanh nghiệp, chiếm hơn 71% tổng diện tích, tăng mạnh so với mức 17.000 ha ban đầu.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn phát biểu tại Hội nghị.
Cùng với đó, hạ tầng phục vụ sản xuất được đầu tư đồng bộ, nhiều hạng mục giao thông, thủy lợi hoàn thành và vượt kế hoạch, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức sản xuất và giảm chi phí cho người dân.
Đến hết tháng 12/2025, các địa phương đã xây dựng trên 90 chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản, thu hút 27 doanh nghiệp, nhà máy chế biến tham gia, không chỉ bao tiêu sản phẩm mà còn đồng hành với nông dân trong tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
Song song với đầu tư hạ tầng, Đề án thúc đẩy tổ chức sản xuất và phát triển liên kết chuỗi. Đến nay, 393 HTX đã tham gia vùng nguyên liệu, hơn 5.500 lượt cán bộ quản lý và thành viên HTX được đào tạo, tập huấn, từng bước ứng dụng công nghệ số trong quản lý và truy xuất nguồn gốc.
Có thể thấy khu vực HTX là nhóm đối tượng hưởng lợi trực tiếp và rõ nét từ Đề án giai đoạn 2022–2025. Việc đầu tư hạ tầng đồng bộ đã thúc đẩy tái cấu trúc toàn diện chuỗi giá trị vùng nguyên liệu, tạo chuyển dịch căn bản về vai trò của các chủ thể trong sản xuất nông nghiệp.
Theo đó, HTX nông nghiệp từng bước chuyển từ “đơn vị sản xuất” sang “trung tâm liên kết và điều phối chuỗi giá trị”; doanh nghiệp từ vai trò thu mua đơn thuần trở thành đầu tàu chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu; còn vùng nguyên liệu được định hình là “vùng hạt nhân” kết nối sản xuất, logistics, chế biến và thương mại.
Nhờ chuyển đổi mô hình tổ chức, tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua HTX tăng từ 35% lên trên 57%, hơn 60 chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ được hình thành, trong đó nhiều chuỗi có hợp đồng bao tiêu dài hạn.
Giao dịch nông sản ngày càng minh bạch, chi phí sản xuất và logistics giảm 20–30%, năng suất cây trồng tăng 10–15%. Các vùng nguyên liệu không chỉ phục vụ sản xuất mà từng bước trở thành nền tảng cho chuỗi giá trị nông nghiệp hiện đại, thu hút đầu tư tư nhân và hướng tới phát triển xanh, bền vững.
Về hiệu quả kinh tế xã hội, Đề án tạo tác động rõ rệt đến hạ tầng logistics, năng suất, thu nhập và việc làm của người dân. Chi phí vận chuyển nông sản giảm 30–35%, thời gian vận chuyển rút ngắn còn 1–2 giờ mỗi chuyến, góp phần giảm tổn thất và tăng khả năng tiêu thụ. Nhiều tuyến đường sau khi được đầu tư đã giúp các HTX tiết kiệm hàng tỷ đồng chi phí vận chuyển mỗi năm.
Cùng với đó, đầu tư thủy lợi giúp các HTX chủ động nguồn nước, giảm mạnh chi phí bơm tưới, ổn định sản xuất tại các vùng lúa trọng điểm. Hệ thống kho chứa, sân phơi, nhà sơ chế được bổ sung đã kéo giảm tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch 25–30%, đặc biệt với các loại nông sản dễ hư hỏng, qua đó nâng cao chất lượng và giá trị thương phẩm.
Đề án cũng góp phần nâng cao năng suất, thu nhập và tạo việc làm ổn định cho người dân. Năng suất lúa tại nhiều địa phương tăng trên 10%, thu nhập bình quân hộ dân trong vùng dự án tăng 10–12%/năm, đồng thời hình thành hàng nghìn việc làm mới trong các khâu vận hành hạ tầng, sơ chế và dịch vụ cơ giới hóa.
Đáng chú ý, mô hình liên kết HTX trung tâm, doanh nghiệp dẫn dắt, nông dân hợp tác tiếp tục được củng cố và mở rộng. Tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua HTX tăng lên hơn 60%, hàng chục chuỗi liên kết có hợp đồng bao tiêu dài hạn được hình thành, góp phần ổn định đầu ra, giảm rủi ro thị trường và tạo nền tảng để nhân rộng trong giai đoạn 2026–2030.
Bên cạnh đó vẫn tồn đọng những hạn chế, cụ thể tại địa phương được thí điểm, đại diện Sở NN&MT An Giang cho biết đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng. Theo đó, HTX được xác định là một trong hai chủ thể then chốt, giữ vai trò quyết định trong xây dựng và vận hành các chuỗi liên kết giá trị lúa gạo, cần được ưu tiên hỗ trợ trong các chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ.
Các HTX nông nghiệp tại vùng dự án cần tiếp tục được củng cố để trở thành trung tâm tổ chức sản xuất, khuyến khích nông dân vừa là thành viên HTX vừa trực tiếp tham gia sản xuất theo chuỗi liên kết bền vững với doanh nghiệp, qua đó hình thành vùng nguyên liệu lúa gạo tập trung, ổn định.
Tuy nhiên, An Giang cũng thẳng thắn nhìn nhận nhiều tồn tại, hạn chế. Việc ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất chưa đồng bộ, chủ yếu dừng ở giống và hạ tầng thiết yếu, chưa phát huy hiệu quả tương xứng với quy mô đầu tư.
Năng lực quản lý, nguồn vốn và cơ sở vật chất của nhiều HTX còn hạn chế, liên kết giữa các HTX và với doanh nghiệp chưa chặt chẽ, chuỗi liên kết lúa gạo chưa đi vào chiều sâu. “Sản xuất vẫn chủ yếu theo chiều rộng, bán thô, ít chế biến sâu, giá trị gia tăng thấp và dễ bị ép giá khi được mùa, trong khi số lượng và năng lực doanh nghiệp tham gia bao tiêu sản phẩm còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn”, đại diện Sở NN&MT An Giang nhấn mạnh.
Từ thực tiễn triển khai tại các địa phương có thế mạnh lâm nghiệp như TP. Huế, Sở NN&MT khẳng định phát triển vùng nguyên liệu gỗ rừng trồng đạt chứng chỉ, quy mô tập trung, gắn với liên kết bền vững cùng doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ là hướng đi tất yếu, tạo nền tảng hình thành chuỗi giá trị gỗ hiệu quả, minh bạch và bền vững, đồng thời giúp Nhà nước thuận lợi hơn trong đầu tư hạ tầng, chuyển giao khoa học kỹ thuật và quản lý sản xuất.
Đúc kết từ các mô hình thí điểm tại địa phương có tiềm năng phát triển vùng gỗ lớn, ông Lê Đức Thịnh nhấn mạnh: “Việc thành lập HTX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi đây là hạt nhân thúc đẩy chuỗi liên kết giá trị gỗ rừng trồng gỗ lớn theo hướng bền vững.”











