Giáo dục cho trẻ emcác giá trị Phật giáo

Mary Talbot, biên tập viênthường trực của tạp chí Phật giáo Tricycle. Nhiều bài viết của bà cũng xuất hiệntrên tờ The New York Times. Bà hiện sống tạibang New York, Mỹ.

Trong hàng ngàn lời dạy củaĐức Phật, Ngài dành rất ít - ba hay bốn bài kinh, tùy theo cách bạn đo đếm - đặcbiệt dành cho trẻ em. Nếu ta nhìn vào độ sâu, độ trải rộng của các kinh tạng,thật khó nghĩ tại sao Đức Phật lại có quá ít kinh giáo dục con trẻ: có phải vìđể theo được con đường của Phật, người ta cần có tâm chín chắn hơn và chí nguyệnmạnh mẽ hơn? Hay chỉ vì xã hội Ấn Độ 2.600 năm về trước, trong các gia đình đãcó đầy đủ những lời khuyên dạy trẻ - và nếu một thành viên trưởng thành tronggia đình đi theo Phật, thì tự nhiêncon trẻ trong nhà cũng hấp thụ nhữngbài học và văn hóa Phật giáo. Hay có lẽ - và đây chỉ là phán đoán của cá nhântôi - rằng vì những điều cốt lõi mà Đức Phật dạy cho trẻ đã bao trùm tất cả cácpháp, nên không cần phải nói thêm nhiều. Hay Đức Phật đang làm điều mà các bậccha mẹ hay thầy cô hoàn hảo nhất làm - là đơn giản hóa các giáo điều phức tạp đếnmức tối đa, cấp thiết nhất - và thể hiện bài giảng theo phương cách để đứa trẻcó thể áp dụng trong đời sống?

Đứa trẻmà chúng tôi muốn nói đến ở đây chính là con của Đức Phật, Rahula - tiếng Palicó nghĩa là “ràng buộc” hay “xiềng xích”. Các Phật tử đều biết là Đức Phật đã rơìbỏ gia đình vào ngày mà đứa con duy nhất của Ngài ra đời - người cha nào mà cóthể làm chuyện đó? (Chúng ta tất biết có không ít người). Nhưng trong trường hợpcủa Đức Phật, việc từ bỏ tình phụ tử và cuộc sống vương giả phản ảnh sự suynghĩ thâm sâu của Ngài rằng hạnh phúc vô điều kiện, bền vững có thể có được -và rằng khi từ bỏ gia đình, từ bỏ những ràng buộc trong đời sống tình cảm vàtâm linh, Ngài có thể cuối cùng đem lại cho họ hạnh phúc bất tử mà Ngài đã tìmđược cho bản thân.

Khi Rahula được bảy tuổi, chú trở thành đệ tử củacha mình và bắt đầu được dạy dỗ để trở thành một tu sĩ. Trong một bài kinh cótên “Giáo giới Rahula” (Trung bộ 61), Đức Phật đã truyền trao cho contrai của mình những hạt giống giáo lý quan trọng nhất. Ngài bắt đầu bằng việcnhấn mạnh đến sự trọng đại của tính chân thật - ám chỉ rằng nếu Rahula muốn tìmra sự thật, thì trước hết tự mình phải sống chân thật. Sau đó Ngài nói đến việcsử dụng những hành động của mình như tấm gương soi. Ngài dạy Rahula rằng, trướckhi làm bất cứ việc gì, hãy tự hỏi mình: Việc tôi sắp làm đây thiện hay bấtthiện? Sẽ đem lại lợi ích hay tai hại? Nếu thấy có hại, thì đừng làm. Nếu tốt, thì cứ tiến hành, thử nghiệm. Tuynhiên, khi đang thực hiện các hành động đó, cũng hỏi như trên. Nếu thấy nó đemlại tai hại, dừng ngay. Nếu không, tiếp tục thực hiện. Rồi ngay cả sau khi hoàntất, cũng hỏi những câu đó - Điều đó thiện hay bất thiện? Nếu con thấy điều lúc đầu có vẻ tốt, thựcsự cuối cùng là xấu, thì hãy trao đổi với huynh đệ, và nhất quyết không bao giờlặp lại lỗi lầm đó nữa. Nhưng nếu, theo lời Đức Phật, “khi quán chiếu [về thân,khẩu hay ý], mà con thấy rằng nó không đưa đến ưu phiền… Nó là một hành độngthiện xảo mang lại kết quả tốt đẹp, ảnh hưởng tốt đẹp, thì tâm con trong sáng,vui tươi, tu tập ngày đêm với các tâm thiện đó”. Đức Phật đã dạy con trai về sự quan trọng củaviệc học hỏi từ các lỗi lầm của mình, việc phải chịu trách nhiệm cho các hành độngcủa mình, và vun trồng tâm bi mẫn. Quan trọng không kém là việc Đức Phật dạycon về chủ đích của hành động và hậu quả của chúng sẽ như thế nào - với nhữnghành động mang lại kết quả tức thời hay dài lâu sau này. Ngài cũng dạy Rahula vềcăn bản của Tứ diệu đế: ý thức rằng khổ là do các hành động trong quá khứ hayhiện tại gây ra, rằng nếu chịu khó quan sát, chúng ta có thể biết cách hành độngngày càng tốt đẹp hơn, cho đến chỗ hoàn toàn tuyệt hảo, hoàn toàn tự tại.

Đức Phật có lơịthế trong việc giáo dục trẻ em vì Ngài sống trong một xứ sở mà việc giáo dục vàthực hành tâm linh là một phần của cuộc sống. Đối với chúng ta, những người muốndạy dỗ con cái theo các giá trị của Phật giáo, phải xây dựng từ cái không hiệnhữu - một hệ thống hỗ trợ giáo dục Phật pháp cho trẻ em. Tuy nhiên, chúng takhông phải bắt đầu từ con số không - kinh Rahula và nhiều giáo thuyếtkhác là nơi đặc biệt để bắt đầu, và sự trải nghiệm cũng như niềm tin của bảnthân chúng ta đóng góp không nhỏ - nhưng ta cũng cần nhiều sự nâng đỡ khác. Nhữngcâu chuyện hay hoạt động thú vị có thể giúp trẻ em thấy được sự quan trọng củagiáo lý, trong khi người lớn, bạn bè và các thành viên cộng đồng có thể đónggóp kinh nghiệm, trí tuệ và kỹ năng để dạy thiền và giúp trẻ em trên con đườngđạo.

...

Là Phật tử,chúng ta cũng là những nhà tiên phong trong việc cố gắng xây dựng một nền vănhóa tôn giáo, đạo đức cho bản thân và gia đình, trong một xã hội vật chất khôngđóng góp được gì cho tầm nhìn của chúng ta. Nhưng cái được của việc dạy Phậtpháp cho con trẻ buộc chúng ta phải là những nhà tiên phong thiện xảo. Trong mộtchừng mực nào đó, dường như việc đem trẻ em (và những thực tại nhân sinh) vàoPhật giáo là biên địa cuối cùng của hầu hết các trung tâm tu tập, được tạo lậpnhư một kiểu tu tập hiếm có (ngay cả trong các nước mà Phật giáo là quốc giáo).Đó không phải là việc mướn người coi trẻ khi chúng ta hành thiền, dầu là cách tổchức coi trẻ hữu hiệu, tiết kiệm - chứ chưa nói đến việc dạy Phật pháp cho trẻ- cũng là một công việc tốn nhiều thì giờ, công sức. Trẻ ở quanh ta khi ta thựchành có thể giúp trẻ làm quen với các hoạt động của ta, nhưng không có nhiêùích lợi cho chúng.

Tạo dựng một cuộc sống theo Phật giáo cho con cáicó nghĩa là chúng ta phải sắp xếp lại cách giáo dục, hoặc trở nên là những ngươìtình nguyện viên đóng góp nhiều thời gian, nghiên cứu các phương cách giáo dục,thiết lập các chương trình, làm lồng đèn Vesak bằng giấy và các lá cờ có lơìkinh với các em nhỏ, hay dạy thiền ở trường học. Đó có thể là một công việc rấtkhó nhọc. Khi Willa, đứa con gái 8 tuôỉcủa tôi cùng đi đến một tu viện thăm bạn tôi; sau đó, nó nói: “Tại sao con phảitrở thành Phật tử chứ? Vừa xấu, vừa chán”. Có nghĩa là: ở đó không có việc gì chotrẻ làm, không có gì có thể tô hồng, hay làm đẹp về điều đó, nên con dứt khoátkhông theo việc mà mẹ quá coi trọng. Tuy nhiên, một năm sau, con gái bắt đâùkéo tôi vào những câu chuyện về sự liên hệ giữa nghiệp và sự may mắn. Nó khẳngđịnh rằng người ta có thể tin vào cả hai: “Ta tự tạo ra nghiệp của mình, và tacũng tự tạo ra sự may mắn cho mình, cho nên may mắn phải là một phần của nghiệp”.Tôi cũng may mắn được cộng tác với một trường học kia về chương trình dạy thiềncho trẻ, nên con gái cũng được học thiền mà không phải vướng víu nếu như phải họcthẳng từ cha mẹ, và có thể tự mình chứng nghiệm giá trị của thiền.

Điều tuyệt vời của dự án này là chúng tôi tái tạolại hình thức lửa trại thời xa xưa, đồng thời cũng quan tâm đến phản ứng của trẻ.Chúng tôi tập chúng tánh rộng lượng, nhấn mạnh về sự quan trọng của việc làm việcgì cho xong việc đó như là sự chủ tâm, hay lúc ngồi thiền, cho đến khi nó trởnên một khả năng nhuần nhuyễn - vì đó là lúc việc làm của ta có kết quả, đượcthoải mái. Trong quá trình này, chính sự tu tập của chúng tôi cũng được tiếntriển, nhưng điểm nhấn ở đây là chúng tôi đang trao cho trẻ những điều thực sựgiá trị.

Trong kinh Rahula, Đức Phật đã dạy con trai kết duyên với các vịcao niên trí tuệ hầu giúp chú có những lựa chọn khôn ngoan - những người màRahula có thể tin cậy và gửi gắm tâm tư. Nếu các bậc cha mẹ có thể tự biến vaitrò của mình thành bạn của con cái - của chúng ta hay của người - là chúng tađã phục vụ chúng tốt… Ngày nay, chúng ta sống trong thời điểm lần đầu tiên mơícó là con cái chúng ta tin nghe theo bạn bè hay giới truyền thông để ứng xửtrong xã hội hơn là nghe theo các bậc lão niên trong gia đình. Nếu chúng takhông muốn những Người Nhện, Người Sắt trở thành thần tượng của con cái mìnhthì ta phải dành được và duy trì được niềm kính tin của chúng…

Mary Talbot - DiêụLiên Lý Thu Linh
(Trích dịch từ TeachingYour Children Buddhist Values, Tạp chí Tricycle, mùa thu 2008)

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/phatgiaovaxahoi/2017/05/21/5a46ca/