EPR - 'cú hích' pháp lý buộc ngành đồ uống phải tái chế bao bì

Quá trình phát triển kinh tế đang tạo ra thách thức khổng lồ về rác thải, đặc biệt là bao bì đồ uống. Trong bối cảnh đó, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) theo Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã trở thành nghĩa vụ pháp lý buộc ngành đồ uống phải chuyển mình.

Ngành đồ uống là một trong những ngành phát sinh khối lượng bao bì lớn nhất hiện nay

Ngành đồ uống là một trong những ngành phát sinh khối lượng bao bì lớn nhất hiện nay

EPR là chìa khóa cho thách thức chất thải bao bì

Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã trở thành nghĩa vụ pháp lý. Thúc đẩy tái chế bao bì thông qua EPR không chỉ là trách nhiệm môi trường, mà còn là cơ hội chiến lược để doanh nghiệp nâng cao giá trị và uy tín thương hiệu trong nỗ lực phát triển bền vững quốc gia.

Chính sách EPR tại Việt Nam, dù được đánh giá là quốc gia đi đầu trong khu vực Đông Nam Á về mức độ hoàn thiện, vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình thực thi.

Ông Hồ Kiên Trung, Phó Cục trưởng Cục Môi trường ( Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, ngành đồ uống là một trong những ngành phát sinh khối lượng bao bì lớn nhất hiện nay. Các loại bao bì quen thuộc như chai nhựa PET, lon nhôm, hộp giấy nhiều lớp... là nguồn rác thải đáng kể. Nếu không được thu gom và tái chế hiệu quả, chúng sẽ gây áp lực nặng nề lên hệ thống quản lý chất thải và môi trường.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế pháp lý, ông Trung cho biết, hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang trong quá trình tham mưu xây dựng một Nghị định riêng về EPR để trình Chính phủ ban hành. Điều này nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý ngày càng vững chắc, minh bạch, khả thi và phù hợp với yêu cầu thực tiễn quản lý môi trường trong giai đoạn mới.

Có thể khẳng định rằng, chính sách EPR đã và đang từng bước đi vào thực tiễn, góp phần thúc đẩy hoạt động tái chế, xử lý chất thải, trong đó có bao bì đồ uống theo hướng ngày càng hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên, ông Đỗ Xuân Thuấn - đại diện Văn phòng EPR chỉ ra những thách thức lớn nhất nằm ở tính mới của quy định, đặc biệt với ngành đồ uống. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn lúng túng khi làm quen và tuân thủ, thể hiện rõ qua việc kê khai trên hệ thống thông tin quốc gia.

Thách thức thứ hai là sự hạn chế và thiếu kết nối trong quá trình tái chế thực tế. Hiện nay, việc tìm kiếm và kết nối giữa nhà sản xuất/nhập khẩu với các đơn vị tái chế hoặc đơn vị ủy quyền gặp nhiều khó khăn do số lượng đơn vị cung cấp dịch vụ (PRO) còn ít. Tình trạng này dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp vẫn chọn đóng góp tài chính thay vì tự tổ chức tái chế, dù Chính phủ có chủ trương khuyến khích hình thức tái chế vật chất.

Cần cơ chế khuyến khích thị trường

Để thực hiện hiệu quả EPR, các bên liên quan đều nhất trí rằng cần có sự đồng bộ từ nhiều phía: Nhà nước, doanh nghiệp, hệ thống thu gom và người tiêu dùng.

Bà Chu Thị Vân Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Bia Rượu Giải khát Việt Nam cho biết, các doanh nghiệp đang rất nỗ lực trong việc tái chế và sử dụng bao bì tái chế trong sản xuất. Tuy nhiên, để thúc đẩy hơn nữa, Hiệp hội kiến nghị cần có cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích thị trường tham gia thu gom và tái chế các loại bao bì khó tái chế như thủy tinh và hỗ trợ giải quyết khó khăn trong chu trình tái chế nhôm (Can-to-Can).

Bà Vân Anh kêu gọi Nhà nước có chính sách thu hút, huy động các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các nhà máy tái chế đa dạng các loại bao bì ngay tại Việt Nam. Về lâu dài, EPR là vấn đề của toàn xã hội, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ.

"Trước mắt, khi chưa có cơ chế tổng thể, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ ngay cho các doanh nghiệp, đặc biệt là ngành đồ uống, thông qua các cơ chế về thuế để việc thực hiện được hiệu quả hơn", bà Vân Anh chia sẻ.

Theo bà Trịnh Thị Vân Giang - Giám đốc Đối ngoại, Phát triển bền vững và Truyền thôn Pernod Ricard Việt Nam, dù có thể chọn phương thức đóng góp tài chính đơn giản, Fenorica vẫn chủ động theo đuổi các chương trình tái chế, chấp nhận mức kinh phí lớn hơn nhiều so với mức đóng góp thông thường.

Bà Giang kiến nghị Nhà nước cần có cơ chế hoặc sáng kiến cụ thể để hỗ trợ những doanh nghiệp thực sự khao khát thực hiện tái chế thủy tinh vượt qua rào cản chi phí hiện tại. Các chương trình giáo dục và truyền thông phải được triển khai ở phạm vi toàn quốc, có sự đồng hành của cơ quan quản lý và các hiệp hội lớn để đạt được tiếng vang và độ phủ tốt hơn.

Cho phép doanh nghiệp kết hợp kết quả tái chế thực tế (dù chưa đạt tỷ lệ yêu cầu) với đóng góp tài chính để bù vào phần thiếu hụt. Bà Giang lập luận rằng, nếu không có điều kiện thuận lợi này, nhiều doanh nghiệp sẽ chỉ chọn đóng góp tài chính, đi ngược lại mong muốn thực hiện hành động tái chế của xã hội. Các khoản đóng góp vào quỹ EPR có thể được sử dụng để hỗ trợ chính doanh nghiệp tiếp tục nghiên cứu, tìm kiếm và áp dụng các thực hành tốt về tái chế.

TS. Hồ Quốc Thông, Viện kinh tế môi trường Đông Nam Á, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh bổ sung thêm rằng vấn đề môi trường đòi hỏi giải pháp vượt ra khỏi phạm vi một chính sách đơn thuần, cần sự đồng bộ chính sách kết hợp với sự tham gia của tất cả các bên.

Ông Thông cũng cho rằng, tái chế phải gắn liền với công nghệ hiện đại, bởi nếu sử dụng công nghệ lạc hậu, hành động này có thể giải quyết được một vấn đề nhưng lại tạo ra một vấn đề môi trường khác.

"Các hoạt động thực hành tái chế và thân thiện với môi trường phải được xây dựng thành một chuỗi giá trị liền mạch, từ phân loại rác tại nguồn, thu gom, đến vận chuyển. Khi các thành phần tham gia chuỗi này (nhà sản xuất, thu gom, tái chế, người tiêu dùng) có đủ động cơ kinh tế và cơ chế vận hành rõ ràng, hệ thống sẽ tự động hiệu quả", ông Thông chia sẻ.

Hồng Hạnh

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/epr-cu-hich-phap-ly-buoc-nganh-do-uong-phai-tai-che-bao-bi-170801.html