Di tích Nhà tù Lao Bảo - nơi được đặt biệt danh địa ngục trần gian
Nhà tù Lao Bảo thuộc địa bàn thôn Duy Tân, thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, cách Đường 9 hơn 2km, cách thành phố Đông Hà 80km về phía Tây. Phía Tây Nam giáp sông Sê Pôn - nơi ranh giới giữa Việt Nam và Lào.
Cuộc sống ở Lao Bảo đổi thay từng ngày, là sự nhộn nhịp phát triển về kinh tế, văn hóa - xã hội, nhưng xa xưa miền biên viễn này là vùng đất hoang vu, rừng núi trùng điệp, khí hậu khắc nghiệt, rừng thiêng nước độc. Nên vào thời kỳ phong kiến, triều đình nhà Nguyễn đã cho xây dựng ở đây một Bảo Trấn Lao, để giữ gìn vùng biên cương không cho quân xâm lược tiến đánh, vừa làm nơi lưu đày các tội nhân mang trọng án của triều đình.

Di tích lịch sử Quốc gia Nhà tù Lao Bảo.
Sau này, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược đất nước ta, cùng với việc khai thác thuộc địa, trấn áp các phong trào yêu nước, chúng đã xây dựng các nhà tù trên khắp đất nước Việt Nam. Và Lao Bảo là địa điểm chiến lược để thực hiện mưu đồ đó vì ở đây hội tụ các yếu tố khắc nghiệt, biệt lập. Năm 1908, thực dân Pháp cho xây dựng nhà tù ngay khu đất Bảo Trấn Lao. Ở đây chỉ giam giữ phạm nhân đến năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám thành công thì không còn giam giữ tù nhân nữa.
Từ năm 1968 - 1971, quân đội ta chọn địa điểm nhà tù Lao Bảo làm điểm đóng quân, chính vì vậy khi đế quốc Mỹ tấn công, chúng đã sử dụng bom dội xuống nên hầu hết hệ thống nhà tù bị đánh sập. Ngày 25/1/1991, nhà tù Lao Bảo đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 154/BVHTT.
Hằn sâu những năm tháng đau thương
Nếu ở miền Bắc có nhà tù Sơn La, Hỏa Lò, miền Nam có Côn Đảo thì ở miền Trung có nhà tù Lao Bảo. Nơi đây giam giữ các tù nhân từ Thanh Hóa đến Bình Thuận gồm có 354 tù nhân, trong đó có 122 là đảng viên Đảng Cộng sản. Nhà tù Lao Bảo là một trong những nhà tù lớn nhất tại Đông Dương lúc bấy giờ, rộng khoảng 10ha. Toàn bộ các công trình nhà tù Lao Bảo ở đây được bao quanh bởi hệ thống tường thành kiên cố cao 3,5m và nhiều lô cốt bảo vệ ở các góc thành và các vị trí quan trọng.
Theo chị Võ Thị Thu Hằng - Phó trưởng Ban quản lý Di tích nhà tù Lao Bảo cho biết: Ở đây có một nguyên tắc không có nơi nào thực hiện, tất cả tù nhân không đứng, ngồi xếp hàng mà phải nằm xếp hàng ở giữa sân. Sau đó cai ngục mới phát một bộ áo quần tù nhân có in dấu và số tù, lần lượt họ bị đưa ra cạo trọc đầu và đưa vào lò rèn. Ở đó tù nhân sẽ bị đóng gông cùm, gắn xiềng xích. Tùy vào tội nặng nhẹ mà tù nhân bị cai ngục đưa về các lao khác nhau lao A, lao B, lao C, lao D hay lao E.
Lao A và B được xây dựng năm 1908, làm bằng gỗ lợp ngói. Mỗi dãy nhà dài 15m, rộng 5m, cao 2m; có thể giam giữ được 60 tù nhân. Sau này bom Mỹ dội xuống đã phá hủy hoàn toàn. Năm 1931, sau khi Đảng Cộng sản ra đời, phong trào chống thực dân Pháp diễn ra mạnh mẽ. Thực dân Pháp cho xây dựng dãy nhà gồm 3 lao kiên cố bằng bê tông cốt thép là lao C, D, E. Mỗi nhà lao dài 30m, rộng 6m, giam giữ được khoảng 180 tù nhân. Lúc bị giam ở lao E thì tù nhân vẫn bị đeo gông cùm ở cổ, chân tay đeo xiềng xích.
Với khí hậu khắc nghiệt, nạn muỗi rừng, lũ quét cùng với chế độ nhà tù hà khắc như: Chế độ lao dịch nặng nhọc, tra tấn phạm nhân dã man như kiểu thời trung cổ; ăn uống tồi tệ, đau ốm không có thuốc men… đã hành hạ thể xác con người đến chết dần, chết mòn. Nhiều người chết vì kiết lị, vì sốt rét ác tính… Nhà tù Lao Bảo trở thành địa ngục trần gian đối với tù nhân bị giam giữ.
Ngoài ra, ở đây còn có khu nhà biệt giam nằm ở phía Đông của nhà tù để giam những tù nhân đặc biệt quan trọng, gồm có 13 buồng, mỗi buồng rộng 1m, cao 2,14m. Các tù nhân không nằm trực tiếp lên sàn xi măng mà chúng cho kê thêm tấm ván bằng gỗ lim, sao cho từ ván đến trần chỉ có 0,7m. Chính vì vậy, tù nhân bị giam ở đây chỉ có thể nằm hoặc ngồi khom.
Tại đây đã từng giam giữ đồng chí Nguyễn Chí Thanh, nhà thơ Tố Hữu. Lúc bị giam ở đây, nhà thơ Tố Hữu mới tròn 20 tuổi. Và đó cũng là nơi nhà thơ viết nên bài thơ nổi tiếng là “Trăng trối”, “Con cá chột nưa” thể hiện khí tiết con người cộng sản “Đến hôm nay phút chết đã kề bên/ Đến hôm nay kiệt sức, tôi nằm rên/ Trên ván lạnh không mảnh mền, manh chiếu./ Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu/ Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi còn một nửa/ Bao khổ ấy, thôi cần chi nói nữa”. Bằng ý chí, nghị lực của người cộng sản, sự cổ vũ của đồng chí, đồng đội xung quanh, các chiến sĩ cách mạng hiểu ra rằng “Danh dự của riêng thân/ Là của chung đồng chí/ Phải giữ gìn tỉ mỉ/ Như tròng mắt con ngươi/ Đến cạn máu tàn hơi/ Không xa rời kỷ luật!”.
Cuộc đấu tranh tuyệt thực, tuyệt ẩm 14 ngày đêm tại nhà tù Lao Bảo thắng lợi. Thực dân Pháp nhượng bộ cho tù chính trị ở đây một số yêu sách. Sau này thực dân Pháp hiểu ra những người cầm đầu như đồng chí Nguyễn Chí Thanh và nhà thơ Tố Hữu đặc biệt nguy hiểm. Để cách ly những người cầm đầu với phong trào đấu tranh của các chiến sĩ cộng sản nên chúng đã cho chuyển các đồng chí vào nhà tù Buôn Ma Thuột.
Chứng tích lịch sử
Bước vào nhà tù Lao Bảo, chúng ta sẽ nhìn thấy hàng chục cây vông đồng cổ thụ, gai góc, gần trăm năm tuổi che mát cả vùng khuôn viên rộng lớn. Những thân cây đầy gai nhọn này là nơi thực dân Pháp tra tấn, phạt tù nhân bằng cách lột áo quần bắt ôm hoặc trèo. Vì thế, cây vông đồng được xem là nhân chứng cho những tội ác man rợ của thực dân Pháp gieo xuống đất này.

Khu nhà lao biệt giam.
Phía bên phải gần những cây vông đồng cổ thụ là cụm Tượng đài kỷ niệm Lao Bảo do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện năm 1999 với ý nghĩa để xoa dịu những đau thương, mất mát từng diễn ra ở nơi đây. Nhưng vượt lên trên hết là ý chí gang thép, là tinh thần đấu tranh của những tù nhân. Khởi đầu cụm tượng đài là hình ảnh những sĩ phu yêu nước, tiếp đến là những chiến sĩ Cộng sản. Họ trong chế độ tù đày, xiềng xích nhưng vẫn toát lên được tinh thần, khí phách hiên ngang, ngẩng cao đầu trước thực dân.
Hình ảnh những nắm tay giơ cao như giữ vững lời thề kiên trung, ý chí kiên định, vượt qua mọi khổ lao xiềng xích, gông cùm. Phía dưới những nắm tay là bốn câu thơ của nhà thơ Tố Hữu viết vào tháng 6/1938: “…Cho tôi hưởng tinh thần hăng chiến đấu/ Cho da tôi dày dạn với ngày mai/ Cho tôi hiến đến cuối cùng suối máu/ Để nhuộm hồng bao cảnh xám bi ai!”. Bài thơ "Lao Bảo" này được nhà thơ viết trong một lần đi thăm người anh làm ở bưu điện Lào khi đi ngang qua nhà tù Lao Bảo, cảm thông trước sự thống khổ của những tù nhân bị đày ải ở nơi đây. Nhưng chính nhà thơ Tố Hữu lại không ngờ được bản thân bị đày đến nhà tù này vào tháng 9/1940.
Nhà tù Lao Bảo không chỉ là một chứng tích lịch sử, còn là dấu ấn hằn sâu của những năm tháng đau thương dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp. Nơi đây đã từng giam giữ biết bao người con ưu tú của dân tộc là những chiến sĩ cộng sản, những người yêu nước, với tinh thần bất khuất, ý chí kiên trung, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do. Giữa bốn bức tường lạnh lẽo và gông cùm xiềng xích, họ vẫn giữ vững niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Nhà tù Lao Bảo là minh chứng sống động cho sức mạnh của lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng. Đó là bài học sâu sắc, thiêng liêng để giáo dục đạo đức và tinh thần yêu nước cho thế hệ hôm nay và mai sau.