Đề xuất sửa quy định áp dụng thuế TNDN bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu
Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 107/2023/QH15 ngày 29/11/2023 của Quốc hội về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu.

Bộ Tài chính đề xuất miễn trừ thuế QDMTT đối với các dự án BOT điện có GGU
Bộ Tài chính cho biết mục đích ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 107/2023/QH15 ngày 29/11/2023 của Quốc hội về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu nhằm phù hợp với quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu thuộc Trụ cột 2 và các hướng dẫn của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế); không vi phạm các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tháo gỡ khó khăn cho các dự án đầu tư trọng điểm có yếu tố đặc thù. Bên cạnh đó, tăng cường tính linh hoạt trong tổ chức thực hiện và xử lý kịp thời các trường hợp phát sinh để đảm bảo ổn định môi trường đầu tư.
Tại dự thảo, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung 2 nội dung chính: (i) nội dung về thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn bằng không (0) đối với các doanh nghiệp thực hiện dự án BOT điện có bảo lãnh Chính phủ (GGU); (ii) nội dung về cơ chế giao Chính phủ xem xét, giải quyết các đề nghị đảm bảo ưu đãi đầu tư.
Miễn trừ thuế QDMTT đối với các dự án BOT điện có GGU
Về nội dung thuế TNDN bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn đạt chuẩn (QDMTT) bằng không (0) đối với các doanh nghiệp thực hiện dự án BOT điện có bảo lãnh Chính phủ (GGU), Bộ Tài chính cho biết, theo rà soát của Chính phủ, số lượng dự án BOT điện còn lại đang được Chính phủ bảo lãnh thanh toán và có thể phát sinh nghĩa vụ thuế bổ sung theo quy định của QDMTT là 07 dự án, bao gồm: Mông Dương 2, Vĩnh Tân 1, Hải Duơng, Duyên Hải 2, Nghi Sơn 2, Vân Phong 1, Vùng Áng 2. Các dự án này đều có quy mô công suất và tổng vốn đầu tư lớn, với khoảng 75-80% vốn vay từ các tổ chức tín dụng quốc tế và 20-25% là vốn góp của nhà đầu tư.
Theo Bộ Tài chính, các dự án BOT điện đều đã được Chính phủ cam kết ổn định chính sách thuế. Cam kết này nhằm đảm bảo dòng tiền, khả năng trả nợ và thanh toán trong suốt vòng đời dự án. Một trong những nội dung trọng yếu là điều khoản liên quan đến việc bồi thường thiệt hại tài chính cho nhà đầu tư trong trường hợp có thay đổi bất lợi về pháp luật hoặc chính sách của Nhà nước làm ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền, khả năng thu hồi vốn và hiệu quả tài chính của dự án.
Việc thực hiện QDMTT theo Nghị quyết số 107/2023/QH15 sẽ dẫn đến phát sinh nghĩa vụ thuế bổ sung đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả các công ty BOT trong lĩnh vực điện lực, từ đó làm giảm dòng tiền và tỷ suất hoàn vốn. Trường hợp không có biện pháp khắc phục thì sự kiện này có thể bị coi là "Sự kiện Chính phủ" theo hợp đồng BOT dẫn đến nghĩa vụ bồi thường.
Theo đánh giá sơ bộ từ các dự án, thiệt hại do tác động của việc áp dụng QDMTT đối với các dự án BOT điện được ước tính như sau:
Dự án Mông Dương 2: Khoảng 14,4 triệu USD (đến năm 2040).
Dự án Vĩnh Tân 1: Khoảng 65 triệu USD (đến năm 2043).
Dự án Nghi Sơn 2: Khoảng 189,53 triệu USD (đến năm 2047).
Dự án Vân Phong: Khoảng 10 triệu USD (đến năm 2049).
Dự án Vùng Áng 2: Khoảng 52,9 triệu USD (từ năm 2033 - 2040).
Dự án Hải Dương: Khoảng 94 triệu USD.
Như vậy, tổng số thuế TNDN bổ sung các dự án phải nộp dự kiến của 6/7 dự án BOT điện nêu trên là 425,83 triệu USD (trong đó có Dự án Duyên Hải 2 chưa có số liệu đánh giá tác động).
Các doanh nghiệp kể trên cũng đã đề xuất phương án xử lý, bao gồm việc xem xét áp dụng điều khoản "Thay đổi Luật Bất lợi" trong Hợp đồng BOT để yêu cầu bồi hoàn thiệt hại, bao gồm: (i) Điều chỉnh giá điện theo hợp đồng mua bán điện (PPA) và (ii) gia hạn thời gian vận hành dự án. Tuy nhiên, đối với phương án (i) điều chỉnh giá điện theo hợp đồng mua bán điện sẽ làm tăng giá điện đầu ra, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô và đặc biệt là an ninh năng lượng quốc gia. Đối với phương án (ii) gia hạn thời gian vận hành dự án thì khó khả thi do liên quan đến các hợp đồng dự án BOT đã ký về đất đai, hạ tầng, tài chính, nhiên liệu. Đồng thời việc kéo dài thời gian của các dự án điện cũng ảnh hưởng đến Quy hoạch điện quốc gia của Việt Nam.
Do đó, Bộ Tài chính đề xuất miễn trừ áp dụng Nghị quyết 107/2023/QH15 đối với các dự án BOT nhà máy điện hoặc bổ sung các cơ chế miễn trừ phù hợp với các lý do sau:
Việc thu thuế QDMTT đối với các nhà máy BOT điện không mang lại lợi ích thực chất cho Việt Nam, ngược lại sẽ làm phát sinh thêm thủ tục hành chính phức tạp, liên quan đến cơ chế bồi hoàn trực tiếp theo hợp đồng dự án BOT và sau này theo các cam kết tại Tài liệu bảo lãnh Chính phủ (GGU).
Việc áp dụng QDMTT nguy cơ cao dẫn đến hệ quả ngược về tài chính do Chính phủ Việt Nam sẽ phải bồi thường cho nhà đầu tư một khoản vượt quá số thuế đã thu.
Phương án không thu thuế QDMTT vẫn tuân thủ đầy đủ hướng dẫn của OECD đối với các trường hợp có ràng buộc pháp lý từ Tài liệu bảo lãnh Chính phủ trước năm 2021.
Việc miễn trừ thuế QDMTT đối với các dự án BOT điện có GGU sẽ giúp tránh làm gia tăng chi phí hoạt động của dự án, từ đó không gây sức ép lên giá điện đầu ra.
Việc tuân thủ các cam kết GGU giúp giữ vững lòng tin của các nhà đầu tư, củng cố môi trường đầu tư trong nước, đặc biệt đối với các lĩnh vực hạ tầng thiết yếu có tính dài hạn và rủi ro cao như năng lượng.
Cụ thể, dự thảo đề xuất bổ sung khoản 10 Điều 4 Nghị quyết số 107/2023/QH15 như sau:
"10. Số thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn sẽ được xác định bằng 0 (không) trong năm tài chính đối với các doanh nghiệp thực hiện dự án BOT điện có bảo lãnh Chính phủ (GGU).
Trường hợp doanh nghiệp thực hiện dự án BOT điện có bảo lãnh Chính phủ (GGU) là đơn vị hợp thành của tập đoàn đa quốc gia có nhiều hơn một đơn vị hợp thành tại Việt Nam thì số thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn đối với doanh nghiệp này là số thuế được phân bổ theo tiêu chí thu nhập từ số thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn của tập đoàn đa quốc gia."
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.