Đẩy mạnh liên kết phát triển vùng trung du và miền núi Bắc bộ
Sáng 15/11, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Kinh tế Trung ương và Tỉnh ủy Lào Cai phối hợp tổ chức Hội thảo 'Định hướng liên kết phát triển vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045'.
Tham dự hội thảo, về phía Trung ương có các đồng chí: Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương.
Tham dự hội thảo còn có lãnh đạo 15 tỉnh khu vực trung du, miền núi Bắc bộ; đại diện các cơ quan, tổ chức quốc tế: Đại sứ quán Australia, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam; các nhà khoa học, chuyên gia...
Tham dự hội thảo, về phía tỉnh Lào Cai có các đồng chí: Đặng Xuân Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; Vũ Xuân Cường, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Trịnh Xuân Trường, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Hoàng Giang, Phó Bí thư Tỉnh ủy; lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh.
Vẫn còn nhiều khó khăn
Phát biểu tại hội thảo, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh: Với vị trí chiến lược quan trọng và tiềm năng to lớn, trong những năm qua, vùng trung du và miền núi Bắc bộ là một trong những vùng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, ưu tiên chính sách đầu tư phát triển.
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng mừng, tuy nhiên, vùng trung du, miền núi Bắc bộ vẫn là vùng nghèo và khó khăn nhất của cả nước, quy mô kinh tế còn nhỏ, nhiều tiềm năng, lợi thế chưa được khai thác hết, hoặc khai thác chưa phù hợp. Tăng trưởng kinh tế tuy đạt cao, nhưng chưa đồng đều và bền vững; chuyển dịch cơ cấu kinh tế của phần lớn các địa phương còn chậm. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, chậm hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch phần lớn ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng thấp. Mặc dù lâm nghiệp là thế mạnh của vùng, nhưng đời sống của người dân chưa thực sự được cải thiện bằng nghề rừng. Một số địa phương phát triển theo phong trào, chưa có tầm nhìn dài hạn, nhất là trong phân bổ các nguồn lực dẫn đến hiệu quả sử dụng kém, khó thu hút đầu tư các dự án lớn. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông còn chưa đồng bộ, các tuyến liên kết nội vùng thiếu liên thông. Hệ thống đường giao thông biên giới còn khó khăn. Vùng chưa thu hút được các doanh nghiệp lớn vào các lĩnh vực có thế mạnh. Vì vậy, hiệu quả sử dụng đất tại các khu kinh tế, khu công nghiệp còn hạn chế.
Tại hội thảo, đồng chí Trần Tuấn Anh, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đánh giá: Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX ngày 1/7/2004 về "Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2020", các nhiệm vụ, mục tiêu của nghị quyết từng bước hoàn thành. Tuy nhiên, đây vẫn là vùng nghèo, quy mô tổng sản xuất thấp hơn mức bình quân cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chất lượng, sức cạnh tranh thấp; các địa phương trong vùng chưa khai thác tốt lợi thế kinh tế biên mậu, phát triển du lịch thiếu bền vững, nhiều địa phương chưa cân đối được ngân sách, kết nối giao thông nội vùng chưa được quan tâm; tỷ lệ hộ nghèo cao, một bộ phận người dân thiếu nơi ở, đất sản xuất.
Liên kết để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực
Theo đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, thực trạng trên ngoài nguyên nhân thiếu nguồn lực đầu tư, thì còn một yếu tố là thiếu kết nối giữa quy hoạch tổng thể và quy hoạch ngành lĩnh vực, giữa quy hoạch vùng và quy hoạch địa phương. Các loại quy hoạch còn xung đột, mâu thuẫn, chồng chéo, chưa gắn kết giữa chiến lược - quy hoạch - kế hoạch đầu tư. Việc tổ chức thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập, quy hoạch thường xuyên bị điều chỉnh gây lãng phí tài nguyên và cản trở thu hút đầu tư của xã hội. Chất lượng quy hoạch còn thấp, kém khả thi, xa rời thực tế, không gắn với nguồn lực thực hiện.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng cho rằng, trong giai đoạn tới, phát triển vùng cần có tư duy đổi mới, cần đổi mới đồng bộ, vượt qua tư duy nhiệm kỳ, địa phương, luôn có cái nhìn bao quát đặt địa phương trong sự phát triển chung của vùng và của cả nước. Cần có cơ chế phối hợp linh hoạt tạo sự gắn kết giữa chính quyền với cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Gắn quy hoạch đô thị với quy hoạch khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Quy hoạch đất đai tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Tháo gỡ điểm nghẽn, tạo nhân tố phát triển, khai thác tiềm năng, lợi thế dưới hình thức kêu gọi, thu hút nguồn lực trong nước và quốc tế. Kết nối các hành lang phát triển. Phải có cơ chế quản trị vượt trội, tính tới hình thành tam giác, tứ giác phát triển. Xây dựng chuỗi liên kết đặt trong liên kết với vùng Thủ đô, tiểu vùng sông Mê Kông. Bên cạnh đó, cần chuẩn bị nguồn lực bài bản, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển vùng. Cần chú ý cả lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các địa phương trong vùng và giữa vùng với cả nước.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho biết: Triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Kinh tế Trung ương đang nghiên cứu đề xuất Trung ương ban hành nghị quyết mới phát triển vùng trung du, miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Với mục tiêu chung của cả nước, vùng đứng trước nhiều thách thức do điểm xuất phát thấp, nguồn lực của Trung ương phân bổ cho vùng còn hạn chế. Vì vậy, giai đoạn tới, các địa phương trong vùng cần nghiên cứu phát triển có định hướng, giải pháp đột phá. Phát huy các lợi thế tài nguyên rừng, cửa khẩu, đẩy mạnh phát triển cây ăn quả, cây dược liệu, chăn nuôi gắn với chế biến, phát triển công nghiệp chế biến sâu. Để có đề xuất với Bộ Chính trị ban hành nghị quyết phù hợp với bối cảnh mới, có giải pháp đột phá, huy động, khơi thông nguồn lực, phạm vi liên quan nhiều bộ, ngành, nhiều địa phương thì các địa phương cần phân tích làm rõ tiềm năng, lợi thế của địa phương trong tổng thể vùng, đề xuất những định hướng lớn để xây dựng quy hoạch, tăng cường liên kết. Phân tích kết quả, thuận lợi, khó khăn, đề xuất trục liên kết chính phù hợp chủ trương của Đảng trong thời gian gần đây, là cơ sở để các địa phương xây dựng chiến lược phát triển. Đánh giá kinh nghiệm mô hình quốc tế vận dụng vào vùng trung du, miền núi Bắc bộ, đặc biệt là xây dựng thể chế phù hợp. Cùng với đó, cần làm rõ thuận lợi, khó khăn với các mô hình liên kết điển hình thời gian qua và sẽ xuất hiện trong thời gian tới, đặc biệt là gắn với các trục liên kết, là cơ sở tổ chức không gian phát triển của vùng.
Tham luận tại hội thảo, Bí thư Tỉnh ủy Đặng Xuân Phong nhấn mạnh: Lào Cai có nhiều cơ hội, điều kiện để từng bước trở thành "Cực tăng trưởng, trung tâm kết nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam - Trung Quốc". Ngoài những tiềm năng và điều kiện thuận lợi, Lào Cai cũng nhận thức rõ những khó khăn, thách thức trên con đường phát triển... Với những thuận lợi, đặc trưng riêng có của tỉnh Lào Cai; sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ tích cực của Trung ương, sự ủng hộ của các địa phương trong vùng, tin tưởng rằng Lào Cai sẽ sớm trở thành cực tăng trưởng, trung tâm kết nối của vùng trung du, miền núi Bắc bộ và của cả nước... (Báo Lào Cai sẽ đăng bài phát biểu tham luận của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Đặng Xuân Phong).
Phát triển hạ tầng giao thông gắn với các hành lang kinh tế
Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Ngọc Đông cho biết: Giai đoạn tới, vùng trung du, miền núi Bắc bộ sẽ ưu tiên đầu tư đường cao tốc và đường nối cao tốc với các địa phương, đảm bảo có kết nối nhanh từ Thủ đô Hà Nội, vùng đồng bằng đến các tỉnh trong khu vực. Từng bước đầu tư hoàn chỉnh các tuyến đường vành đai biên giới. Căn cứ theo lưu lượng để cải tạo, nâng cấp các đoạn tuyến đường kết nối liên tỉnh, ưu tiên các tuyến độc đạo, an sinh xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tiếp tục nghiên cứu đầu tư hoàn chỉnh cảng hàng không trong khu vực nhằm tăng cường kết nối cự ly xa cho khu vực, tạo động lực thúc đẩy tiềm năng du lịch, thu hút đầu tư trong vùng; huy động vốn đầu tư các tuyến đường sắt mới, đường thủy trong khu vực.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh: Quan điểm các địa phương trong vùng trung du, miền núi phía Bắc muốn đi nhanh, đi xa phải đi cùng nhau. Các tỉnh trong khu vực cần chung nhận thức, chung tầm nhìn, xác định rõ quan điểm mục tiêu, sắp xếp lại không gian phát triển, khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, biến thách thức thành cơ hội.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, định hướng tổ chức không gian phát triển vùng trung du và miền núi Bắc bộ giai đoạn tới cần gắn kết phát triển hạ tầng giao thông với các hành lanh kinh tế. Trong đó, hành lang Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng với vùng ảnh hưởng trực tiếp gồm 8 tỉnh, thành phố phía Bắc từ Lào Cai đến Hải Phòng là tuyến hành lang kết nối tiểu vùng Tây Bắc với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước và là tuyến nối ra biển gần nhất của tiểu vùng Tây Bắc. Hành lang kinh tế này có tác động trực tiếp đến sự phát triển của vùng phía Bắc và cả nước, tăng cường hợp tác với vùng Tây Nam - Trung Quốc và rộng hơn là một trong những cửa ngõ của khu vực ASEAN với Trung Quốc. Kết nối các địa phương trong vùng và liên thông thông qua cao tốc Nội Bài - Lào Cai; tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai và Hà Nội - Hải Phòng, Cảng Hàng không Sa Pa. Theo định hướng phát triển, hành lang này sẽ phát triển mạng lưới giao thông đồng bộ bao gồm đường bộ, đường sắt, đảm bảo kết nối đầu mối cửa khẩu Lào Cai và các địa phương trên toàn tuyến với cụm cảng biển số I, trong đó có cảng cửa ngõ Lạch Huyện. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết: Giai đoạn tới, ngân sách Nhà nước sẽ tiếp tục ưu tiên đầu tư cho khu vực này. Đây là vùng kém cạnh tranh hơn vùng khác, vì vậy cần có cơ chế ưu đãi đặc thù.
Cũng với quan điểm trên, ông Andrew Jeffries, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á tại Việt Nam (ADB) nhấn mạnh: Hướng chuyển dịch ưu tiên từ hành lang giao thông sang hành lang kinh tế nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư xuyên biên giới. Lấy ví dụ từ thành công của tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai, sau khi hoàn thành, dự án đóng vai trò quan trọng trong phát triển Tây Bắc, lợi ích từ hành lang giảm thời gian đi lại từ 10 tiếng còn 4 tiếng, tăng GDP các tỉnh, giảm nghèo đạt được nhiều kết quả, các doanh nghiệp tạo thêm việc làm cho khu vực này, giao thông giữa các tỉnh biên giới với Trung Quốc tăng lên đáng kể. Ông Andrew Jeffries nhấn mạnh, hạ tầng giao thông, đặc biệt là đường cao tốc là yếu tố quan trọng tạo nền tảng phát triển các ngành khác, hình thành hành lang kinh tế cho cả khu vực.
Lựa chọn mô hình liên kết phát triển vùng phù hợp
Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) cho biết, các mô hình phát triển không gian khác nhau có lợi thế, điểm yếu. Ở mỗi quốc gia có các mô hình khác nhau, như tập trung vào khu vực phát triển chậm hơn hay phát triển khu vực duyên hải; phát triển theo các hành lang kinh tế hay đặt trọng tâm vào các thành phố lớn, phát triển các khu công nghiệp... Nhiều kinh nghiệm trong phát triển không gian vùng có thể giúp nghiên cứu vận dụng vào vùng trung du và miền núi Bắc bộ.
Bà Carolyn Turk nhấn mạnh, để giải quyết vấn đề lớn, phát huy lợi thế vùng, tạo lập không gian phát triển, tối ưu hóa sử dụng nguồn lực, cần phải tiếp cận theo hướng tổng thể. Phát triển theo không gian đóng vai trò quan trọng mang lợi ích tổng thể cho cả vùng, vì vậy cần có sự điều phối tốt hơn giúp cho các địa phương trong vùng gắn kết hiệu quả hơn với các chuỗi liên kết của cả nước và toàn cầu. Định hướng phát triển chiến lược trong quy hoạch vùng và địa phương cần hiện thực hóa thông qua một chương trình đầu tư công tích hợp cho cả vùng. Cần thiết lập cơ chế điều phối vùng, thống nhất mục tiêu, chia sẻ dữ liệu thông tin, các giải pháp đưa ra phải xem xét tổng thể.
Tại hội thảo, các đại biểu đã trao đổi, thảo luận về những khó khăn, hạn chế, cơ hội, thách thức, lợi thế, tiềm năng cho sự phát triển vùng trung du và miền núi Bắc bộ đến 2030, tầm nhìn đến 2045. Khẳng định đây là vùng có vị trí kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại đặc biệt quan trọng của cả nước. Do vậy, cần được Trung ương quan tâm đặc biệt, nhằm phát huy cao nhất các tiềm năng, lợi thế của từng tiểu vùng và từng địa phương trong vùng.
Phát biểu bế mạc hội thảo, đồng chí Trần Tuấn Anh, Trưởng ban Kinh tế Trung ương đánh giá cao các ý kiến thảo luận tâm huyết, trách nhiệm tại hội thảo. Các phân tích của các đại biểu, chuyên gia đã đóng góp vào thành công hội thảo và phục vụ tổng kết Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX.
Nhấn mạnh các ý kiến thảo luận đã được các đại biểu đưa ra và thống nhất cao, đồng chí Trần Tuấn Anh khẳng định: Liên kết phát triển vùng là tất yếu, cần thay đổi nhận thức để liên kết thực sự là động lực, cần tích hợp liên kết vùng trong tổng thể quy hoạch quốc gia, liên kết trong các ngành lĩnh vực. Tăng cường liên kết vùng trở thành công cụ phát triển của địa phương, hình thành chuỗi giá trị của vùng. Để liên kết vùng hiệu quả thì nguồn đầu tư của Trung ương đóng vai trò chủ yếu dẫn dắt. Cùng với tập trung đầu tư, liên kết hạ tầng thì cần quan tâm các vấn đề xã hội, đảm bảo hài hòa kinh tế và môi trường sinh thái, với tính chất đặc thù đồng bào dân tộc cần có cơ chế đặc thù... Bài học kinh nghiệm của quốc gia, quốc tế gợi mở chính sách cần ban hành, hạn chế cơ cấu kinh tế khép kín theo địa phương, thử nghiệm quản lý vùng trong một số ngành, lĩnh vực. Những đánh giá, thảo luận tại hội thảo là cơ sở để Trung ương ban hành nghị quyết mới với cơ chế chính sách phù hợp, đột phá tạo động lực cho vùng trong thời gian tới.