Cuộc vây bắt luồng cá khổng lồ nơi 'hiểm nhất' ngư trường Tư Chính

Sau 2 ngày 2 đêm lênh đênh tàu cũng đến ngư trường Tư Chính, buổi sáng nắng cháy rát, trời xanh ngăn ngắt, lộng gió mang theo hơi muối mặn mòi.

20 ngày lênh đênh trên tàu cá của ngư dân.

Bãi Tư Chính nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía Nam của Việt Nam, có rạn san hô khổng lồ, nhiều hẻm vực sâu thẳm, cá lớn thường hay đi cả đàn vào bãi rạn ăn mồi cá con. Trên tàu anh Hoang có máy dò, xác định đàn cá nhiều hay ít, để quyết định cho tàu chạy theo và tìm cách “dụ” cá.

Trước mắt tôi, những chiếc tàu của bà con ngư dân dập dềnh “ngủ” sau một đêm trắng quần thảo đánh bắt giữa ngư trường, cờ đỏ sao vàng trên nóc tàu bay phấp phới.

Cạnh bãi Tư Chính là ngư trường Trường Sa, Phúc Nguyên,… Khu vực này có trữ lượng nguồn lợi thủy sản xếp hạng bậc nhất của nước ta. Ngư dân các tỉnh, thành miền Trung xem như “nồi cơm” khổng lồ, họ chạy tàu ra ở lại đánh bắt hàng tháng trời, đồng thời là lực lượng canh giữ biển, đảo hùng hậu nhất.

Được lệnh của thuyền trưởng, chiếc tàu giảm tốc, chạy tà tà khắp mặt biển, tất cả các thuyền viên tập trung trên boong tàu, cùng nhau quan sát mặt nước, dò tìm bằng mắt thường kết hợp dùng máy dò để phát hiện nơi các đàn cá tập trung, khi bóng tối buông mành sẽ thắp đèn.

Thắp đèn để dụ các loại cá nổi nhỏ ưa ánh sáng tập trung lại quanh đèn, từ đó thu hút cá ngừ tới kiếm mồi. Khi mật độ cá dưới đèn đủ lớn, các yếu tố ngoại cảnh như gió, nước thuận lợi thì giảm dần ánh sáng đèn để thả lưới.

Nói thì đơn giản, nhưng để thả được một mẻ lưới mất khoảng hai đêm, khi đó, cá mới bắt đầu gom đàn lại trong phạm vi nhỏ khoảng mấy trăm mét vuông. Nếu tàu và cá đang ở trong vùng nước cạn dưới 100 m, phải sử dụng đèn nổi trên mặt nước dẫn đàn cá ra chỗ “hiểm” đánh trọn đàn”, anh Hoang cho biết.

Chỗ “hiểm” là những hẻm vực sâu từ 200 - 500 m, diện tích rộng, đủ cho tàu lưới vây buông lưới bao trọn đàn cá. Việc này đòi hỏi người thuyền trưởng phải có kinh nghiệm lão luyện, đo tính được gió thổi, tốc độ dòng chảy, độ sâu, rộng của hố vực.

Độ sâu của lưới từ 100 - 130 m, chiều dài hơn 1.000 m, mình phải biết rõ hố vực nào đủ điều kiện để dẫn đàn cá ra. Mọi hoạt động trên thuyền phải hết sức nhẹ nhàng vì thấy động là đàn cá chạy hết”, anh Hoang tâm sự.

Đại dương sâu thẳm được xem là “nồi cơm khổng lồ” của ngư dân.

Đại dương sâu thẳm được xem là “nồi cơm khổng lồ” của ngư dân.

Anh Hoang cũng thả thêm chà trên biển. Điều này xuất phát từ kinh nghiệm của ngư dân. Cá ngừ sọc dưa đi ăn thành đàn, ban ngày kéo nhau đi kiếm mồi và thường tập trung núp dưới bóng mát của các gò, rạn, vật nổi trên biển.

Chà là những tàu dừa, cành tre, cây bụi được cột dính chùm, thả lơ lửng trên mặt biển để dẫn dụ cá đến quần cư.

Mỗi cây chà thả xuống biển cách nhau 5 hải lý và có một tàu thường xuyên túc trực theo dõi. Khi phát hiện có đàn cá tới trú ngụ, ngư dân lập tức báo cho trưởng tàu để điều thêm các tàu khác đến vây bắt. Mỗi cây chà đầu tư trên dưới 100 triệu đồng nhưng nếu gặp đàn cá lớn có thể vây bắt hàng chục tấn.

Anh Hoang cho hay, làm nghề mành chà ở vùng khơi cần lượng vốn đầu tư rất lớn, tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ kết nối định vị những cây chà với tàu cá để theo dõi đàn cá, quản lý cây chà… Chà thả ở vùng khơi thu hút rất nhiều đàn cá đứng bóng (cá quần cư) dưới chà, như cá nục, cá ngừ sọc dưa.

Những mẻ lưới bủa đầu tiên sau nhiều ngày quần thảo trong “nồi cơm khổng lồ”.

Những mẻ lưới bủa đầu tiên sau nhiều ngày quần thảo trong “nồi cơm khổng lồ”.

Khi cá nhỏ quần tụ tại chà thì cũng sẽ thu hút các loài cá lớn như cá ngừ đại dương tìm đến săn mồi. Ngư dân chỉ cần chong đèn dụ cá ra khỏi chà là đã có thể đánh bắt ngay, đỡ tốn thời gian, chi phí đi dò tìm luồng cá, đạt hiệu quả kinh tế cao.

Đến nay tôi đã thả gần 30 cây chà ở khu vực quần đảo Trường Sa. Ngoài 5 tàu cá của gia đình, tôi còn hợp tác với thêm 3 tàu bên ngoài để cùng giữ chà, đánh cá tại chà, chuyển sản phẩm vào bờ bán, ăn chia theo thỏa thuận.

Trung bình mỗi mùa trăng, các tàu của tôi đánh bắt khoảng 60 – 70 tấn cá, phần lớn là cá ngừ sọc dưa. Thu nhập mỗi tàu từ 10 – 12 triệu đồng/người/chuyến biển, chuyến nào trúng đậm có khi lên tới 20 triệu đồng/người”, anh Hoang cho biết.

Theo anh, những cây chà được thả ở vùng biển gần quần đảo Trường Sa càng dày thì số lượng tàu cá có nhiệm vụ canh chà thường trực có mặt ở biển Đông càng nhiều.

Vùng thả chà đánh bắt cá ngừ sọc dưa trên biển Đông vì thế sầm uất như một làng chài. Những cây chà, tàu cá và ngư dân thường trực trên biển Đông mặc nhiên trở thành những “cột mốc di động” bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Ngư dân canh chà có khi bám biển đến 1 - 2 tháng mới về nhà một lần và được “thay quân” theo định kỳ. Hàng ngày, ngư dân canh chà sử dụng máy dò cá để dò xem có đàn cá quần tụ ở cây chà nào không. Nếu có, ngư dân canh chà gọi điện về báo và tôi sẽ cho tàu và thuyền viên chạy ra, cùng với ngư dân canh chà bủa lưới đánh bắt, thu nhập chia đều”, anh Hoang bật mí.

Sau nhiều giờ dò cá, tại một vùng biển có bãi đá ngầm nổi cao hơn đáy biển, theo lệnh của anh Hoang, tàu dừng lại, một chiếc neo nặng khoảng 1 tấn được buộc vào sợi dây neo chuyên dụng to bằng cổ tay người lớn, dài khoảng 5.000 - 6.000 m được thả xuống. Các thành viên nghỉ ngơi, ăn cơm, lấy sức tối bật máy phát điện chong đèn dụ cá, thả lưới.

Đứng trên mũi tàu, đốt nén nhang thơm, thuyền trưởng Hoang khẩn cầu cho một chuyến biển cá nặng đầy khoang. Đây là nghi thức không thể thiếu của mỗi tàu trước khi bủa mẻ lưới đầu tiên của chuyến biển.

Khoảng 4h sáng, mặt biển vẫn mờ mờ tối, ầm ào sóng đập liên hồi vào thân tàu, gió rít qua mang tai, hơn chục thuyền viên mình trần lộ bộ ngực vạm vỡ, bắp tay to khỏe đứng thành một hàng dài bên be tàu sẵn sàng cho một mẻ lưới lớn.

Anh Hoang hô to: “Chuẩn bị” và đẩy cần số về trước, kéo mạnh tay ga, con tàu chẻ sóng lao vút về phía trước. Anh Hoang la lớn: “Lưới!”. Những ngư dân đôi tay chai sần, đôi vai trần vạm vỡ, đôi bàn chân to bè, rắn chắc bám chặt vào thành tàu liên tục quăng phao, chì và vung lưới xuống mặt biển.

Con tàu gầm rú bứt tốc. Tấm lưới dài với chiếc khoen nặng cả tấn liên tục được bung ra, tàu của chúng tôi vẽ một đường vòng tròn hơn 1 km, hoàn tất công đoạn bủa lưới.

Khi công việc thả lưới đã xong, tàu được neo lại. Các thuyền viên với sức người cùng máy kéo lại bắt đầu hoạt động thu lưới. Tấm lưới được thu với tốc độ chậm nhằm hạn chế đến mức thấp nhất số cá thoát ra ngoài. Trọng lượng của lưới bị đàn cá kéo ghì xuống đáy biển khiến việc kéo lưới của chúng tôi trở nên khó khăn.

Trời ngày càng nắng gắt dù mới buổi sáng, khi lưới gần được kéo lên hết, đàn cá bắt đầu hoảng loạn tìm cách thoát thân. Lúc này hai thợ lặn mặc đồ nhái nhảy xuống nước, liên tục lặn hụp hàng tiếng đồng hồ kiểm tra lưới, dồn đàn cá về một góc.

Với ngư dân, biển là máu, là tim, là mạng sống của mình. Còn với biển, họ là những chấm đỏ, những cột mốc sống trong hành trình giữ gìn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Với ngư dân, biển là máu, là tim, là mạng sống của mình. Còn với biển, họ là những chấm đỏ, những cột mốc sống trong hành trình giữ gìn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Cứ thế, miệng lưới được kéo lên thuyền, đàn cá nằm gọn trong lưới dần được cẩu lên từ độ sâu gần 30 m dưới đáy biển đổ xòa trên mặt boong tàu. Từ 7h sáng đến gần 11h trưa chúng tôi kéo được khoảng 5 tấn cá lên tàu. Tất cả được cấp đông ngay vào hầm đá trước khi tiếp tục di chuyển đến những chà cá còn lại được anh Hoang thả sẵn.

Ngồi thở hổn hển dưới sàn tàu anh Hải - thuyền viên chia sẻ: “Chi phí cho một chiếc tàu rời cảng ra khơi khoảng 200 - 300 triệu đồng, muốn có lãi phải khai thác được từ 20 tấn cá trở lên. Có những chuyến biển kéo dài cả hai trăng vì chưa đủ lượng cá.

Nếu có vài tạ cá, không thể chạy tàu vào bờ bán được thì chuyển qua tàu hậu cần chở vào cảng. Cần mua thêm lương thực, thực phẩm, rau xanh... nhắn người nhà mua gửi tàu đưa ra. Tàu hết dầu thì ghé vào các đảo ở Trường Sa mua, giá bán giống như ở đất liền.

Mùa này cũng là vụ chính đánh bắt cá ngừ sọc dưa, nhưng thời điểm này thời tiết có nhiều biến động, do vậy đi biển phải theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, tuân thủ các khuyến cáo của ngành chức năng về chống khai thác IUU, đảm bảo an toàn tàu cá khi hoạt động trên biển”.

Dưới ánh đèn mù mờ, nhiều người mệt lả vì đói và mệt, sau 20h quần thảo chúng tôi thu được khoảng 8 tấn cá. Cũng coi là bội thu.

Theo các thuyền viên, muốn cá tươi, và tăng khả năng bảo quản, ngay khi đánh bắt mẻ lưới đủ sản lượng cho tàu hậu cần chuyên chở, thuyền trưởng gọi điện vào bờ thông báo cho gia đình biết sản lượng cá đánh bắt được, tàu hậu cần cập vào mạn tàu lưới vây nhận cá đưa vào thùng đá lạnh, rồi chạy vào cảng cá gần nhất tại Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa...

Lực lượng trên bờ chuẩn bị đoàn xe ô tô, dọn sẵn điểm tập kết, gọi điện thoại rảo giá ở chợ đầu mối các tỉnh, xem chợ nào mua giá cao sẽ “chốt” giá bán và số lượng cá khi tàu đang ở ngoài khơi. Đây là những điều căn cốt mà tàu lưới vây và tàu hậu cần ở tỉnh Bình Định, Phú Yên phát triển nhiều năm qua.

Gần 20 ngày bám biển, tàu của chúng tôi không phải lần nào thả lưới cũng đầy khoang, có những đêm quần thảo nhưng lưới trống trơn. Và có lẽ, nghề nào cũng vậy, ngoài kinh nghiệm đều cần sự kiên trì, bền bỉ. “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, sau những ngày lênh đênh, tàu cũng thu về 27 tấn cá các loại, anh em tàu ôm nhau vui mừng vì chuyến khơi bội thu.

Chuyến này, trừ chi phí, mỗi anh em cũng được gần 10 triệu đồng về đưa vợ”, anh Hoang phấn khởi.

Trong suốt chuyến đi, thuyền trưởng Hoang liên tục lấy cuốn sổ tay nhỏ ra ghi ghi chép chép. Trong sổ ghi chi chít những con số kinh độ, vĩ độ với các chú giải như đá ngầm, san hô, không làm được, nhiều cá, đi qua được...

Anh Hoang bảo, đây là thói quen cha truyền con nối rất hữu ích, đánh dấu những địa điểm mà người đi biển ghi nhận được trong quá trình đánh bắt thực tế. Mỗi khi lưới bị mắc cạn do vướng đá ngầm hay san hô, gặp cá hay dòng nước đều được ghi chú lại để sử dụng cho những chuyến biển tiếp theo. Thông tin từ cuốn sổ được đời cha truyền cho đời con, các thuyền trưởng san sẻ nhau qua mỗi đợt ra khơi.

Những bữa "ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương" trong những chuyến khơi xa.

Những bữa "ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương" trong những chuyến khơi xa.

Qua thời gian và qua nhiều thế hệ người đi biển, cuốn sổ ngày một dày hơn với đầy ắp thông tin từ đáy biển Đông.

Những ngày lênh đênh theo tàu của anh Hoang, suốt cả hành trình, mang tiếng “hậu cần” nhưng tôi dường như phải “chiến đấu” với những cơn say sóng. Trong người tôi lúc nào cũng lâng lâng, mệt mỏi. Thậm chí có lúc không thể ngóc nổi đầu dậy, nằm bẹp trên cabin tàu, nhìn thấy thức ăn là sợ.

Gần 20 ngày trên tàu, đồng nghĩa với từng ấy thời gian tôi cầm hơi bằng cách gặm nhấm những gói lương khô mang theo, cùng nước trắng. Đổi lại, tôi được nghe những cuộc trò chuyện giữa muôn trùng biển khơi của các ngư dân.

Hành trình đem cá về đất liền vì có tôm cá đầy khoang nên không khí cũng rộn ràng hơn, anh Hoang lặng nhìn ra cảng biển rồi hào sảng cất lên mấy câu trong lời bài hát Tổ quốc gọi tên mình, do nhạc sĩ Đinh Trung Cẩn phổ thơ Phan Quế Mai: Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi! Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ. Thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã. Máu của người nhuộm mặn sóng Biển Đông…”.

Rồi anh hô to: “Anh em ơi, đừng thấy sóng cả mà ngã tay chèo…!”.

Con tàu vượt qua những con sóng bạc đầu, giọng hát của anh đôi khi lạc vào hư không thật xa, có lúc thật gần…

Ngắm nhìn những con tàu giương cao lá cờ Tổ quốc nối đuôi nhau vươn ra biển lớn, tôi như cảm nhận được sự thủy chung với nghề, tình yêu và trách nhiệm với biển của những thế hệ ngư dân ở làng biển.

Với họ, biển là máu, là tim, là mạng sống của mình. Còn với biển, họ là những chấm đỏ, những cột mốc sống trong hành trình giữ gìn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Hình ảnh hàng trăm chiếc tàu cá với lá cờ Tổ quốc linh thiêng, phấp phới tung bay trên tàu như những “cột mốc sống” giữa biển cả, dệt nên bức tranh lao động sản xuất hăng say, đoàn kết và viết nên khúc ca đẹp về tình yêu quê hương, đất nước.

Nguồn VTC: https://vtcnews.vn/cuoc-vay-bat-luong-ca-khong-lo-noi-hiem-nhat-ngu-truong-tu-chinh-ar922380.html