Cuộc 'thiên di' lập nên bản làng

Từ trên đỉnh dốc, bản Ché Lầu, xã Na Mèo hiện ra dưới thung sâu như một nét chấm phá giữa mênh mông rừng núi biên giới. Trong căn nhà gỗ xám bạc, mái lợp pơ mu, bên bếp than hồng, ông Thao Văn Sếnh, năm nay đã hơn 80 tuổi kể cho chúng tôi nghe về cuộc 'thiên di' của gia đình và hành trình lập bản, dựng làng của đồng bào Mông nơi phên dậu Tổ quốc.

Một góc bản Ché Lầu nhìn từ trên cao.

Một góc bản Ché Lầu nhìn từ trên cao.

Từ dấu chân "người mở đất"

Dù đã ở cái tuổi xưa nay hiếm, ông Sếnh vẫn nói một cách hào sảng về bản làng người Mông nơi đây. Ông vốn ở bản Pá Hộc, xã Pù Nhi - nơi cây thuốc phiện từng được trồng rất nhiều. Quyết tâm rời bỏ vùng đất “chết”, năm 1990 ông một mình lội rừng sang vùng đất mới - tức Ché Lầu nay, để thăm dò thổ nhưỡng. Sau những ngày ăn rừng ở suối, cuốc nương thử đất, ông trở về bản và bàn với gia đình di cư ngay. Thế là 11 con người trong gia đình mang theo chỉ vài cái gùi, xoong nồi, dao dựa và nhu yếu phẩm tích trữ. Đường đi chủ yếu là đồi núi, rừng rậm, có đoạn phải phát cây mở lối. Một năm sau, ông cùng em trai cuốc bộ xuống trung tâm xã Na Mèo xin nhập khẩu. Năm 1994, bản Ché Lầu chính thức thành lập với 8 nóc nhà gỗ thấp. “Khi ấy bản còn hoang vu lắm. Không điện, không đường, chỉ có tiếng suối rì rầm và tiếng thú dữ vọng từ rừng sâu”, ông Sếnh nhớ lại.

Kể về cuộc sống ở vùng đất mới, ông Sếnh chậm rãi nói: “Nhà 11 miệng ăn, dựa cả vào cây lúa trên nương, cây sắn, cây ngô mình trồng. So với nơi cũ thì đỡ vất vả hơn, nhưng đến kỳ giáp hạt cái bụng vẫn đói”. Câu chuyện đang dở thì đồng chí cán bộ biên phòng đi cùng chen lời: “Ông Sếnh là người Mông tiến bộ của bản đấy! Bán trâu bò để con trai là Thao Văn Thê học đến đại học. Ông từng là trưởng bản, người uy tín của đồng bào Mông và đồng hành với bộ đội biên phòng trông giữ cột mốc biên giới hàng chục năm”.

Ông Sếnh lặng lẽ nhìn vào bếp lửa. Ánh lửa hắt lên gương mặt khiến hình ảnh người đàn ông được ví như “cây đại thụ” của bản thêm trầm tĩnh. Làm trưởng bản nhiều năm, ông gắn bó gần như cả đời với việc bảo vệ cột mốc G12 (nay là 324-325). 31 năm đi giữ mốc, có ngày mưa trơn trượt, có hôm chạm mặt thú rừng, ông vẫn đều đặn bước đi. “Khi mình không còn đủ sức lên cột mốc thì phải động viên, khích lệ con cháu nối gót. Bảo vệ cột mốc, giữ đất, giữ bình yên của bản làng có ý nghĩa thiêng liêng lắm!”, ông nói.

Giờ đây, ông vui hơn khi thấy Ché Lầu thay da đổi thịt. Cả bản đã có gần 70 hộ, hơn 300 nhân khẩu. Những lớp con em, thanh niên mới lớn được đến trường, tiếp xúc với khoa học - kỹ thuật, mang trong mình tinh thần đổi mới. Họ dám rời bỏ nếp nghĩ cũ kỹ, vượt qua những con dốc hun hút để bước vào những môi trường tiến bộ hơn.

Hành trình thắp sáng Mùa Xuân

Rời Ché Lầu, men theo con đường dốc chúng tôi đến bản Mùa Xuân (xã Sơn Thủy). Cái tên nghe trong trẻo, tươi mới, nhưng từng chìm trong những tháng ngày dài đói nghèo, hủ tục và biệt lập. Ở những bản vùng cao, mỗi sự đổi thay bắt đầu từ những con người thắp lên đốm lửa đầu tiên. Ở Mùa Xuân, ngọn lửa ấy xuất hiện từ những bước chân khai phá của những người Mông tiến bộ. Ông Sung Văn Cấu (SN 1969), bí thư chi bộ kiêm trưởng bản, kể: "Năm 1990, tôi cùng bốn gia đình người Mông từ xã Pù Nhi băng rừng sang đây khai hoang lập nghiệp. Đặc biệt, trong nhóm mở bản có 4 đảng viên là ông Hơ Nọng Súa, Hơ Văn Tho, Sung Văn Di và Thao Văn Dia. Họ thành lập chi bộ đảng đầu tiên, do ông Hơ Nọng Súa làm bí thư".

Bấy giờ, Mùa Xuân là vùng đất khắc nghiệt gắn với “5 không”: không điện, không đường, không trường, không trạm, không sóng điện thoại. Người dân muốn xuống trung tâm xã phải men theo sườn núi cả ngày trời. Gặp mưa, phải đi xuyên đêm mới về được nhà. Cái nghèo bủa vây, 100% hộ thiếu gạo kỳ giáp hạt. Việc phát triển đảng viên trẻ gần như không ai nghĩ tới. Nhiều năm liền chi bộ không kết nạp được một đảng viên mới.

Giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của bản phải kể đến những năm ông Thao Văn Dính làm bí thư chi bộ (2004-2018). Năm 2013, tỉnh triển khai Đề án 2181 về đưa người đã khuất vào quan tài, ông Dính vẫn nhớ như một “cuộc chiến”, một bước ngoặt lớn của bản làng. Sau nhiều nỗ lực, năm 2017 có 4 đám tang người chết được đưa vào quan tài, chôn cất ngay hôm sau, không rượu chè linh đình, không mổ trâu bò. Đó là những bước chuyển mình mở đường cho nếp sống mới.

Xóa bỏ hủ tục, nhưng để người dân ấm no, đảng viên phải tiên phong. Ông Dính là người đầu tiên đứng lên xin thoát nghèo. Rồi mở rộng nương, trồng gần 4ha nứa vầu, nuôi trâu bò, làm măng khô bán; mùa măng ông thu mua cho bà con, giúp tăng thu nhập. Từ chỗ du canh du cư, người dân Mùa Xuân nay đã biết làm lúa nước hai vụ, chế biến nông sản, nuôi trâu bò theo hướng hàng hóa. Toàn bản hiện có 306 trâu bò, 1.300 gia cầm, hơn 60ha nứa vầu cùng nhiều diện tích dứa, mận, đào. Từ hộ ông Dính tiên phong, đến nay bản có 14/126 hộ thoát nghèo; chi bộ bản duy trì gần 20 đảng viên sinh hoạt.

Câu chuyện về Ché Lầu, Mùa Xuân qua lời kể của những con người tiên phong rời quê trong hành trình “mở đất", cho thấy sự kiên trì. Họ rời đi để tìm chỗ dựa mới cho gia đình, vun đắp tương lai, lập nên những cái tên mới trên bản đồ.

Bài và ảnh: Đình Giang

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/cuoc-thien-di-lap-nen-ban-lang-270310.htm