Còn khoảng trống lớn tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

Một báo cáo mới nhất của FiinGroup cho thấy, dù chiếm 95% tổng số doanh nghiệp trên cả nước nhưng chỉ 9,3% doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được vốn vay, tạo ra 'khoảng trống tín dụng' lớn. Đây vừa là thách thức rủi ro, vừa là cơ hội tăng trưởng cho ngân hàng.

Khoảng trống tín dụng cho DNVVN – từ rủi ro sang cơ hội tăng trưởng. Ảnh minh họa Internet

Khoảng trống tín dụng cho DNVVN – từ rủi ro sang cơ hội tăng trưởng. Ảnh minh họa Internet

Theo Báo cáo “Tín dụng cho SME: Cơ hội và Rủi ro” của FiinGroup phát hành ngày 8/8, hạn chế tiếp cận vốn đồng nghĩa với việc nhiều DNVVN bị bó hẹp khả năng mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, hay nâng cao năng lực cạnh tranh.

Trong bối cảnh Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định vai trò then chốt của khu vực kinh tế tư nhân và DNVVN là lực lượng nòng cốt, khoảng trống này không chỉ là vấn đề của doanh nghiệp mà còn là thách thức về hiệu quả phân bổ nguồn lực quốc gia.

Rủi ro thu hẹp, cơ hội mở ra

Một trong những điểm nổi bật của báo cáo là bức tranh rủi ro của DNVVN đã thay đổi đáng kể trong vài năm gần đây. Dữ liệu từ FiinGroup, sử dụng mô hình chấm điểm FiinScore+ trên thang 1–1.000, cho thấy giai đoạn 2022–2024, rủi ro tăng cao, với gần 60% số DNVVN rơi vào nhóm rủi ro cao và rất cao.

Năm 2025 đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt: tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn hơn 40%, trong khi gần 27% doanh nghiệp được xếp vào nhóm rủi ro thấp và rất thấp.

Bức tranh rủi ro tín dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam theo thời gian. Nguồn: FiinGroup

Bức tranh rủi ro tín dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam theo thời gian. Nguồn: FiinGroup

FiinGroup lý giải sự cải thiện này xuất phát từ hai yếu tố: (1) quá trình sàng lọc tự nhiên khi những doanh nghiệp yếu kém phải rời thị trường sau giai đoạn khó khăn 2022–2023; (2) sự phục hồi chung của nền kinh tế, giúp cải thiện dòng tiền và khả năng trả nợ của doanh nghiệp.

Bức tranh rủi ro cũng phân tầng rõ rệt theo quy mô. Khoảng 60% doanh nghiệp lớn nằm trong nhóm rủi ro rất thấp (FG-1 đến FG-4), trong khi hơn 70% DNVVN và doanh nghiệp siêu nhỏ tập trung ở nhóm rủi ro trung bình đến cao (FG-8 đến FG-14). Điều này phản ánh lợi thế về vốn, quản trị và thị phần của các doanh nghiệp lớn, nhưng đồng thời cũng cho thấy nhóm DNVVN vẫn còn nhiều khoảng trống để cải thiện hồ sơ tín dụng.

Mức độ rủi ro tín dụng phân chia theo ngành. Nguồn FiinGroup

Mức độ rủi ro tín dụng phân chia theo ngành. Nguồn FiinGroup

Xét theo ngành, sự phân hóa càng rõ. Công nghiệp chế biến – chế tạo, vận tải – kho bãi, và chuyên môn & khoa học công nghệ là ba lĩnh vực có tỷ lệ đóng cửa lịch sử thấp (dưới 6%) và điểm rủi ro trung vị ở mức khoảng 550, tiệm cận nhóm an toàn. Ngược lại, kinh doanh bất động sản và lưu trú – ăn uống là hai lĩnh vực có tỷ lệ đóng cửa cao nhất, lần lượt là 9,1% và trên 8%, với điểm rủi ro trung vị chỉ quanh mức 500 – phản ánh áp lực lớn từ biến động thị trường, chi phí vốn và nhu cầu tiêu dùng.

Dù vậy, điều đáng chú ý là ngay cả trong các ngành có rủi ro thấp, tỷ lệ tiếp cận vốn vay của DNVVN vẫn rất hạn chế. Đây chính là mấu chốt để chuyển từ “bức tranh rủi ro” sang “bức tranh cơ hội”.

Những ‘mỏ vàng’ tín dụng bị bỏ ngỏ

Báo cáo của FiinGroup hé lộ một thực tế thú vị: gần 85% DNVVN có nợ vay hiện nay đã hoạt động từ 5 năm trở lên cho thấy tín dụng không chỉ cung cấp vốn mà còn giúp kéo dài vòng đời doanh nghiệp.

Thế nhưng, vẫn còn khoảng 40% DNVVN hoạt động trên 5 năm, có mức rủi ro trung bình hoặc thấp nhưng chưa từng tiếp cận vốn vay. Đây là nhóm khách hàng tiềm năng, hội đủ tiêu chí về kinh nghiệm hoạt động và mức rủi ro có thể chấp nhận, nhưng đang bị “bỏ quên” trong chiến lược cho vay của nhiều ngân hàng.

Tiềm năng cấp tín dụng cho doanh nghiệp ngành xây dựng. Nguồn: FiinGroup

Tiềm năng cấp tín dụng cho doanh nghiệp ngành xây dựng. Nguồn: FiinGroup

Ngành xây dựng là minh chứng rõ ràng nhất. Theo phân tích của FiinGroup, nhóm mã ngành 410, 421 (xây dựng nhà và công trình kỹ thuật dân dụng) có khoảng 57.000 DNVVN, sử dụng khoảng 476.000 lao động và đang có tổng dư nợ vay khoảng 26 nghìn tỷ đồng. Mặc dù biên lợi nhuận gộp bình quân đạt 11,71% và lợi nhuận ròng bình quân dương, chỉ khoảng 7% doanh nghiệp trong ngành này được tiếp cận vốn vay.

Phân tích sâu hơn cho thấy, trong số các DNVVN ngành xây dựng chưa vay vốn, có khoảng 16.000 doanh nghiệp thuộc nhóm rủi ro thấp, 15.000 ở mức trung bình và 22.000 ở mức cao. Nếu ngân hàng tập trung vào nhóm thấp và trung bình, cơ hội mở rộng tín dụng an toàn là rất lớn, đồng thời có thể kích thích tăng trưởng việc làm và chuỗi cung ứng vật liệu, thiết bị.

Nguyên nhân khiến nhóm “có thể cho vay” vẫn bị bỏ ngỏ khá đa dạng. Một phần xuất phát từ rào cản thông tin: nhiều DNVVN chưa có báo cáo tài chính chuẩn mực hoặc thiếu minh bạch trong quản trị, khiến ngân hàng phải “cộng thêm” hệ số rủi ro khi định giá khoản vay.

Bên cạnh đó, chi phí thẩm định và quản lý khoản vay nhỏ lẻ cao hơn so với quy mô vốn cấp ra khiến các ngân hàng ưu tiên các hợp đồng lớn. Ngoài ra, cơ chế bảo lãnh tín dụng và chia sẻ rủi ro tại Việt Nam chưa đủ mạnh để khuyến khích ngân hàng mở rộng cho vay đối với nhóm SME.

FiinGroup đề xuất áp dụng các mô hình chấm điểm rủi ro dựa trên dữ liệu toàn diện, không chỉ dữ liệu tài chính truyền thống mà còn dữ liệu hành vi thanh toán, tín hiệu từ thị trường và thông tin ngành. Cách tiếp cận này giúp nhận diện chính xác nhóm DNVVN “an toàn” để mở hạn mức, đồng thời giảm thiểu chi phí thẩm định.

Từ khoảng trống tín dụng đến động lực tăng trưởng

Để biến khoảng trống tín dụng thành cơ hội, cần sự phối hợp ba bên: ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Ngân hàng có thể ứng dụng công nghệ và dữ liệu lớn để tự động hóa bước sàng lọc, từ đó giảm chi phí giao dịch và mở rộng danh mục khách hàng mà không đánh đổi chất lượng tài sản.

DNVVN cần chủ động minh bạch hóa tài chính, áp dụng chuẩn mực kế toán và nâng cao năng lực quản trị. Cơ quan quản lý có thể hỗ trợ qua việc mở rộng các quỹ bảo lãnh tín dụng, khuyến khích các sản phẩm tín dụng đặc thù cho DNVVN, nhất là ở những ngành rủi ro thấp.

Một số hướng đi cụ thể như: Phát triển sản phẩm “khoản vay ngắn hạn quy mô nhỏ" (micro-term loan) hoặc hạn mức tín dụng theo chu kỳ cho các ngành chế biến, vận tải, xây dựng; Kết hợp cấp vốn với hỗ trợ kỹ thuật, ví dụ đào tạo quản trị tài chính và chuyển đổi số cho DNVVN; Áp dụng cơ chế bảo lãnh có điều kiện để chia sẻ rủi ro cho khoản vay trong lĩnh vực ưu tiên như hạ tầng xanh, công nghệ sạch, sản xuất công nghiệp phụ trợ.

Nếu các giải pháp này được triển khai đồng bộ, khoảng trống tín dụng sẽ không còn là điểm yếu cản trở sự phát triển của DNVVN. Ngược lại, nó có thể trở thành bệ phóng để khu vực này đóng góp nhiều hơn vào GDP, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia và củng cố sự bền vững của hệ thống tài chính.

Báo cáo của FiinGroup cho thấy rõ, cơ hội không thiếu, vấn đề là nhận diện đúng và có phương pháp tiếp cận phù hợp. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, việc khai thác hiệu quả nhóm DNVVN “đủ điều kiện nhưng chưa được vay” có thể là một trong những chìa khóa quan trọng nhất.

Ngọc Linh

Nguồn Mekong Asean: https://mekongasean.vn/con-khoang-trong-lon-tin-dung-cho-doanh-nghiep-vua-va-nho-44868.html