Chuyện về thương binh Đào Thị Kiệu

Ở tuổi 77, mái tóc bạc trắng, lưng còng, dáng người nhỏ nhắn, mắt vẫn ánh lên vẻ cứng cỏi. Bà Đào Thị Kiệu, thương binh hạng 1/4, ngụ ấp Phú Lâm, xã Đông Thái vẫn đều đặn chăm mấy con vịt, vài con heo sau nhà. Mảnh vườn ấy, căn nhà ấy là nơi một người đàn bà suốt đời vượt qua bom đạn, vượt qua bệnh tật, vượt qua cả những nỗi đau mà chiến tranh để lại, chỉ để sống xứng đáng với đồng đội, quê hương.

“Tôi còn sống là nhờ đồng đội, nhờ dân mình che chở, có người đã chết thay tôi. Nên tôi nguyện sống sao cho xứng đáng…”, bà Kiệu nói, giọng run run mà ánh mắt vẫn rực sáng niềm kiêu hãnh.

Bà Kiệu tham gia cách mạng khi tuổi đời còn rất trẻ. 14 tuổi, bà làm giao liên huyện An Biên cũ, chèo xuồng băng rừng, vượt kênh đưa thư, tải gạo, đưa đón cán bộ giữa mưa bom bão đạn. Mười sáu tuổi, trong một chuyến công tác, bà bị thương ở mắt phải. Thế nhưng chỉ nghỉ dưỡng ít lâu, bà lại quay về trận tuyến, tiếp tục làm giao liên, tuyên huấn, bám dân, bám đất.

Thương binh Đào Thị Kiệu bên di ảnh chồng.

Thương binh Đào Thị Kiệu bên di ảnh chồng.

Năm 1970, khi đang tải gạo cho Trường Đảng ở kênh 15, địch bất ngờ càn quét. Dù đã kịp chui xuống hầm, một quả pháo vẫn nổ sát bên khiến bà bị thương nặng, phải tháo khớp cánh tay trái. “Lúc đó, tôi nghĩ chắc mình không qua nổi… Nghĩ đến bao người đã ngã xuống, tôi quyết tâm phải sống, phải tiếp tục”, bà kể, giọng nghẹn ngào.

Sau ngày bị thương, bà được đưa về xã Đông Yên dạy học. Một tay, một mắt, nhưng bà vẫn kiên trì cầm phấn, dạy từng đứa trẻ trong xóm đánh vần, viết chữ. “Hồi đó nghèo dữ lắm, mà mấy nhỏ ham học. Tôi dạy được nhiều đứa, có đứa giờ làm bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo…”, bà Kiệu chia sẻ.

Bà Kiệu vót đũa bằng một cánh tay còn lại.

Bà Kiệu vót đũa bằng một cánh tay còn lại.

Cũng trong những năm khói lửa ấy, bà gặp ông Lâm Hữu Ý, người chồng sau này của bà tại Trường Đảng. Ông là du kích xã Khánh Lâm (tỉnh Cà Mau), từng bị địch bắt, bị tra tấn nhưng không khuất phục và là thương binh hạng 3/4. Họ đến với nhau bằng một tình yêu mộc mạc giữa rừng đạn. Giữa hai người, không có những lời tỏ tình ngọt ngào, không có hoa, không có nhẫn cưới, chỉ có sự thấu hiểu, cảm thông và cùng chung một lý tưởng chiến đấu.

Hình ảnh bà Kiệu trong mắt ông Ý là người con gái An Biên với nét đẹp rắn rỏi, ý chí gan góc, tấm lòng kiên trung. Còn bà cảm nhận nơi ông sự nhân hậu, nghĩa tình của người đồng đội từng đi qua lằn ranh sống chết. Tình yêu của họ đến nhẹ nhàng như hơi thở, lặng lẽ mà bền bỉ...

Hai vợ chồng chung sống đến khi ông Ý qua đời, suốt hơn bốn mươi năm không một lần to tiếng. “Tôi nghĩ chắc người ta thương hại mình, rồi cũng bỏ… Ai ngờ ổng thương thiệt, thương tới hết đời”, bà Kiệu cười mà nước mắt rưng rưng.

Dù tuổi cao, sức khỏe giảm sút nhưng bà Kiệu vẫn lạc quan.

Dù tuổi cao, sức khỏe giảm sút nhưng bà Kiệu vẫn lạc quan.

Sau ngày đất nước thống nhất, ông Ý về công tác ở Sở Thủy sản, rồi làm Phó Chủ tịch xã Đông Thái. Bà Kiệu về ấp Phú Lâm, được cấp hơn mười công đất, một tay, một mắt mà vẫn gầy dựng cuộc sống. Bà nuôi heo, nuôi vịt, trồng cây, nuôi năm đứa con khôn lớn. Có hai người con không may mất sớm vì bệnh tật, nghèo khó. Nỗi đau ấy chẳng lời nào nói hết nhưng bà vẫn vững vàng: “Mất mát thì đau lắm, nhưng tôi còn sống là phải sống cho xứng đáng”.

Ông Ý cũng là người có công lớn trong việc mở mang vùng quê. Ông dẫn dân đi đào con kênh thủy lợi dài 4 cây số vừa phục vụ sản xuất, vừa làm đường giao thông cho phương tiện đi lại, thu mua nông sản, sau này người dân gọi là kênh Năm Ý, cây cầu bắc qua kênh cũng mang tên ấy. Từ con đường sình lầy năm xưa, giờ đã được bê tông hóa, sạch đẹp, thuận tiện giao thương.

Cuộc đời bà Kiệu là chuỗi dài của nghị lực và lòng trung thành với cách mạng. 55 năm tuổi Đảng, thương binh hạng 1/4, nhưng bà chưa từng than vãn, chưa từng xin chế độ nào thêm. Tay bà vuốt nhẹ lên cánh tay cụt như một thói quen thân thuộc rồi nói: “Còn sức thì còn làm. Không làm thì buồn lắm, sợ ngồi không lại nhớ đồng đội, nhớ ổng rồi lại buồn”.

Giờ đây, trong căn nhà nhỏ giữa vườn cây, mỗi sáng, bà Kiệu vẫn dậy sớm cho heo ăn, dọn chuồng vịt, rồi ngồi kể chuyện xưa cho đám cháu nghe. Câu chuyện nào cũng chan chứa lòng yêu nước, tình đồng đội và niềm tin sắt son vào Đảng, vào nhân dân.

Người ta vẫn nói có những anh hùng không cần tạc tượng vì cuộc đời họ đã là tượng đài. Bà Đào Thị Kiệu, người phụ nữ một tay, một mắt ấy chính là một tượng đài như thế. Giản dị mà kiên cường, lặng lẽ mà sáng ngời. Bà sống như lời bà từng nói năm nào: “Đồng đội tôi ngã xuống cho mình được sống, thì suốt đời này tôi phải sống sao cho xứng đáng với họ”.

Bài và ảnh: ĐẶNG LINH

Nguồn An Giang: https://baoangiang.com.vn/chuyen-ve-thuong-binh-dao-thi-kieu-a466989.html