Chuyên gia góp ý dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi)
Góp ý dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi), PGS.TS Đinh Dũng Sỹ kiến nghị cần nâng cao hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong kiểm tra các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi; tham gia xử lý tổ chức tín dụng yếu kém; đồng thời thiết kế cơ chế thu phí bảo hiểm tiền gửi theo phân loại rủi ro.
Cần quy định đủ mạnh để tận dụng hết vai trò, nguồn lực của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Luật Bảo hiểm tiền gửi được ban hành từ năm 2012, trên cơ sở nâng cấp các Nghị định của Chính phủ từ năm 1999. Sau 13 năm thực thi, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, củng cố niềm tin vào hệ thống tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, trước sự thay đổi nhanh chóng của bối cảnh kinh tế và pháp lý, nhiều quy định đã bộc lộ hạn chế.
Việc sửa đổi Luật Bảo hiểm tiền gửi lần này (dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) đang được chuẩn bị trình Quốc hội) không chỉ khắc phục những bất cập hiện hành, mà còn đồng bộ với hệ thống pháp luật của kỷ nguyên mới.
Trong đó, một số điểm sửa đổi, bổ sung chính là: mở rộng quyền hạn của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, nâng cao hiệu quả bảo vệ người gửi tiền, đồng thời góp phần duy trì sự ổn định, phát triển an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng, các tổ chúc tín dụng.
Hầu hết các sửa đổi, bổ sung của dự thảo Luật đã được xây dựng phù hợp, khắc phục được các hạn chế hiện hành, đáp ứng yêu cầu hoạt động của bảo hiểm tiền gửi trong thời gian tới.
Tuy nhiên, đối chiếu với thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, thiết nghĩ một số quy định trong dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) cần được xây dựng đủ mạnh để tận dụng hết vai trò, nguồn lực của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tiệm cận với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu phân quyền, phân cấp của Đảng và Nhà nước hiện nay. Cụ thể:
Thứ nhất, cần nâng cao hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong kiểm tra các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi hiện hành, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi; kiến nghị Ngân hàng nhà nước xử lý hành vi vi phạm quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Cụ thể, gồm các nội dung: (i) Việc thực hiện quy định về đề nghị cấp, cấp lại, niêm yết Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi; (ii) Việc tính và nộp phí bảo hiểm tiền gửi; (iii) Việc nhận tiền gửi được bảo hiểm; (iv) Việc cung cấp thông tin về tiền gửi được bảo hiểm, các thông tin và báo cáo khác theo yêu cầu của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Thực tiễn trong những năm qua, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực hiện tốt nhiệm vụ này, đã phát hiện những vi phạm của các quỹ tín dụng nhân dân để kiến nghị Ngân hàng nhà nước có biện pháp xử lý kịp thời.
Do đó, việc huy động thêm nguồn lực từ Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để hỗ trợ công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước là cần thiết. Đây vừa là kênh bổ sung nhân lực, vừa giúp hình thành đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, có thể tham gia xử lý tổ chức tín dụng yếu kém khi cần thiết.
Trong bối cảnh chủ trương tinh gọn bộ máy (trước đây, Ngân hàng nhà nước Việt Nam có 63 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố, hiện nay chỉ còn 15 Ngân hàng nhà nước chi nhánh khu vực), việc giao Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hỗ trợ Ngân hàng nhà nước kiểm tra tổ chức tín dụng cũng góp phần hỗ trợ, giảm áp lực cho Ngân hàng nhà nước.
Dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) lần này tiếp tục bổ sung quy định nội dung kiểm tra của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không chỉ giúp Ngân hàng nhà nước có thêm một kênh giám sát độc lập, mà còn mang lại góc nhìn đa chiều trong đánh giá hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Theo đó, Ngân hàng nhà nước đóng vai trò chủ trì, xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra tổng thể; trên cơ sở đó, giao Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện những nội dung kiểm tra cụ thể hàng năm. Căn cứ kết quả kiểm tra, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam báo cáo Ngân hàng nhà nước và kiến nghị các biện pháp xử lý (nếu có).
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không làm nhiệm vụ thanh tra cũng không có chức năng xử lý vi phạm. Cách tiếp cận này đảm bảo sự phối hợp, chia sẻ trách nhiệm mà không chồng chéo, trùng dẫm.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng không hoạt động độc lập như một cơ quan quản lý nhà nước mà chỉ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao với tư cách là một định chế tài chính của Nhà nước, là cánh tay nối dài, hỗ trợ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm của Ngân hàng nhà nước đối với các hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, quy định của dự thảo Luật về hoạt động kiểm tra của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng vẫn chưa khai thác hết vai trò, thế mạnh của bảo hiểm tiền gửi, vì trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện tổ chức tín dụng có sai phạm, thậm chí có nguy cơ mất an toàn thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chỉ có quyền báo cáo Ngân hàng nhà nước mà không được quyền đưa ra khuyến nghị tổ chức tín dụng khắc phục hoặc ngăn chặn kịp thời các vi phạm.
Do đó, dự thảo Luật Bảo hiểm tiền (sửa đổi) gửi nên bổ sung quy định: Trong hoạt động kiểm tra nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm hoặc có nguy cơ mất an toàn thì bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có quyền khuyến nghị, đưa ra cảnh báo đối với tổ chức tín dụng, đồng thời báo cáo Ngân hàng nhà nước để có biện pháp xử lý.
Những kiến nghị trong quá trình kiểm tra của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chỉ mang tính khuyến nghị, không áp đặt, không bắt buộc đối với tổ chức tín dụng nhưng có thể mang lại lợi ích to lớn khi tổ chức tín dụng biết và khắc phục kịp thời những vi phạm, những nguy cơ mất an toàn của tổ chức mình, không đợi đến khi cơ quan quản lý nhà nước "thổi còi", xử phạt.
Quy định như trên vừa bổ sung, vừa tránh lãng phí nguồn lực, thế mạnh của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong hoạt động kiểm tra mà vẫn không can thiệp, không gây ảnh hưởng gì đến hoạt động bình thường của các tổ chức tín dụng.
Mặt khác, về phía bảo hiểm tiền gửi cũng cần xây dựng, áp dụng những biện pháp, phương thức kiểm tra hợp lý, khoa học, đặc biệt là áp dụng các giải pháp công nghệ (ứng dụng AI) trong hoạt động kiểm tra để bảo đảm hoạt động kiểm tra của bảo hiểm tiền gửi không chồng chéo với Ngân hàng nhà nước, không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các tổ chức tín dụng nhưng vẫn đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ kiểm tra của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Thứ hai, cần tăng cường vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc tham gia xử lý tổ chức tín dụng yếu kém.
Dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) bổ sung các quy định về cho vay đặc biệt, mua trái phiếu dài hạn nhằm bảo đảm tính đồng bộ với Luật Các tổ chức tín dụng. Đồng thời tạo hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng, minh bạch để tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể chủ động và linh hoạt hơn trong việc tham gia hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, phát huy hiệu quả chức năng hỗ trợ, xử lý tổ chức tín dụng yếu kém nhưng không trùng dẫm với các nghiệp vụ của Ngân hàng nhà nước.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi được quyền tham gia vào quá trình xử lý tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi yếu kém với các hoạt động như: cử người đủ tiêu chuẩn, điều kiện để giữ chức danh quản lý, điều hành, thành viên Ban kiểm soát tại Quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt theo yêu cầu của Ngân hàng nhà nước; tham gia đánh giá tính khả thi phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt theo pháp luật về tổ chức tín dụng; mua trái phiếu dài hạn của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc, cho vay đặc biệt tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi... Từ đó nâng cao vị trí, vai trò, tận dụng được bộ máy, đội ngũ viên chức của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, góp phần tái cơ cấu, xử lý tổ chức tín dụng yếu kém.
Mặc dù dự thảo Luật đã có những bổ sung nhất định về nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong tham gia xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém so với Luật hiện hành nhưng vẫn "chưa tới tầm", chưa sử dụng hết tiềm lực, thế mạnh sẵn có của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Kinh nghiệm từ các nước phát triển (như Hoa Kỳ, Hàn Quốc) cho thấy, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền rất lớn trong việc tiếp nhận, xây dựng phương án tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém hoặc xử lý các tổ chức tín dụng giải thể, phá sản. Đối với Việt Nam hiện nay, môi trường chính sách và thực tiễn hệ thống ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi chưa thể áp dụng ngay cơ chế như các nước phát triển, nhưng có thể vận dụng phù hợp để khai thác hết nguồn nhân lực của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, tránh lãng phí một định chế tài chính của Nhà nước đã khá lớn mạnh, có bề dầy hình thành và phát triển ¼ thế kỷ.
Do vậy, trước mắt nên nghiên cứu bổ sung thẩm quyền cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong tái cấu trúc quỹ tín dụng nhân dân theo hướng: Giao Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được quyền chủ trì xây dựng phương án tái cấu trúc hoặc phương án giải thể, phá sản đối với các Quỹ tín dụng nhân dân yếu kém, trình Ngân hàng nhà nước phê duyệt và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chủ trì tổ chức thực hiện phương án.
Vì hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân hầu hết quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, việc xây dựng và thực hiện phương án tái cấu trúc hoặc cho giải thể, phá sản đối với các quỹ tổ chức tín dụng hoàn toàn nằm trong tầm tay của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Giải pháp này vừa tận dụng được nguồn lực của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, vừa chia sẻ gánh nặng quản lý nhà nước với Ngân hàng nhà nước Việt Nam, lại vừa tiệm cận dần đến thông lệ quốc tế.
Còn đối với các ngân hàng thương mại yếu kém thì trong giai đoạn hiện nay Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chỉ nên là người tham gia xây dựng và thực hiện phương án như quy định của dự thảo Luật là hợp lý.
Thứ ba, về cơ chế thu phí bảo hiểm tiền gửi.
Luật Bảo hiểm tiền gửi hiện hành quy định cơ chế tính và thu phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng - mức phí như nhau đối với tất cả các tổ chức tín dụng. Cụ thể mức phí là 0,15%/năm trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm tại mỗi tổ chức tín dụng (theo Nghị định 68/2013/NĐ-CP và Nghị định 26/2017/NĐ-CP).
Dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) vẫn giữ nguyên cơ chế này, chưa chuyển sang cơ chế thu phí theo rủi ro.
Cơ chế thu phí đồng hạng dù có ưu điểm là đơn giản, dễ quản lý nhưng có điểm hạn chế lớn là tạo nghĩa vụ nộp phí như nhau đối với tất cả các tổ chức tín dụng dù có độ an toàn, mức tín nhiệm cao, thấp khác nhau.
Từ đó tạo sự thiếu công bằng và không khuyến khích tăng cường quản trị an toàn, kiểm soát rủi ro của các tổ chức tín dụng. Và vì vậy, cơ chế thu phí đồng hạng hiện không còn phổ biến trên thế giới.
Cơ chế thu phí phân biệt theo nguyên tắc rủi ro dựa trên định mức tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng là một phương thưc tính và thu phí bảo hiểm tiền gửi hiện đại. Theo đó tổ chức tín dụng có tín nhiệm cao, rủi ro thấp thì nộp ít, tổ chức tín dụng có độ tín nhiệm thấp, rủi ro cao thì phải nộp nhiều, từ đó tạo động lực kiểm soát rủi ro đối với các tổ chức tín dụng.
Theo thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), trên thế giới hiện nay có khoảng 70-75% các hệ thống BHTG đã áp dụng hoặc đang chuyển sang cơ chế "phí theo rủi ro" (các nước phát triển như Hoa Kỳ áp dụng từ năm 1993, Hàn Quốc 1998; ở khu vực Đông Nam Á, các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines đều đã áp dụng mô hình "phí theo rủi ro").
Từ thực tiễn nói trên, Ngân hàng nhà nước Việt Nam nên cân nhắc chuyển sang cơ chế thu phí bảo hiểm tiền gửi theo rủi ro để bảo đảm công bằng và khuyến khích các tổ chức tín dụng tăng cường kiểm soát rủi ro. Theo đó, nên đưa cơ chế tính phí này vào dự thảo Luật.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi trong việc áp dụng cơ chế phí theo rủi ro (vì liên quan đến việc định mức tín nhiệm các tổ chức tín dụng và phân hạng theo tiêu chí rủi ro), dự thảo Luật nên quy định thẩm quyền và lộ trình áp dụng theo hướng: Giao thẩm quyền cho Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam quyết định áp dụng cơ chế tính phí theo nguyên tắc rủi ro trước năm 2030.
Việc chuyển sang cơ chế thu phí này cũng phù hợp với Chiến lược phát triển Bảo hiểm tiền gửi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1660/QĐ-TTg ngày 30/12/2022, trong đó có quy định đến năm 2030 thực hiện "tính và thu phí bảo hiểm tiền gửi... theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế"./.