Chuyển đổi số mở đường cho tri thức Việt vươn xa

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 lan tỏa mạnh mẽ, chuyển đổi số đang trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển trên mọi lĩnh vực.

Giảng viên Khoa công nghệ điện tử Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn sinh viên học tập, nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm IoT and AI. Ảnh minh họa: Thanh Vũ/TTXVN

Giảng viên Khoa công nghệ điện tử Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn sinh viên học tập, nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm IoT and AI. Ảnh minh họa: Thanh Vũ/TTXVN

Đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là khối khoa học xã hội và nhân văn – nơi nghiên cứu con người và các mối quan hệ xã hội, chuyển đổi số không chỉ là công cụ hỗ trợ, mà còn là phương thức đổi mới tư duy và tiếp cận tri thức.

Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn đang mở rộng không gian học thuật, tăng tính chính xác của kết quả, đồng thời tạo điều kiện để khoa học Việt Nam hội nhập sâu hơn với thế giới. Các nhà khoa học cho rằng đây là cơ hội để lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đổi mới căn bản, phát huy giá trị nhân văn trong kỷ nguyên số.

Đổi mới tư duy nghiên cứu trong thời đại số

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Hải, Viện Trần Nhân Tông (Đại học Quốc gia Hà Nội), quá trình chuyển đổi số trong nghiên cứu khoa học đang diễn ra sâu rộng, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới tư duy và phương pháp tiếp cận. Trí tuệ nhân tạo đang trở thành công cụ quan trọng giúp giới nghiên cứu khai thác, xử lý và phân tích dữ liệu, qua đó mở rộng quy mô và rút ngắn thời gian triển khai đề tài.

Nhờ công nghệ, nhà khoa học có thể tiến hành các phân tích chuyên sâu, phát hiện mối liên hệ tiềm ẩn giữa dữ liệu, hỗ trợ hình thành và kiểm chứng giả thuyết khoa học. Những nền tảng như ChatGPT, Gemini hay Claude đang góp phần tự động hóa quy trình xử lý thông tin, tổng hợp tài liệu, dịch thuật và mô phỏng hiện tượng xã hội. Nhờ đó, quá trình nghiên cứu trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, theo Phó Giáo sư Nguyễn Hoàng Hải, công nghệ chỉ là phương tiện, còn con người mới là chủ thể sáng tạo tri thức. Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo phải đi đôi với trách nhiệm học thuật, tuân thủ nguyên tắc khách quan và đạo đức nghiên cứu. Nếu dữ liệu đầu vào thiếu chính xác, kết quả sẽ dễ bị sai lệch. Bởi vậy, nhà khoa học cần năng lực phản biện và khả năng kiểm chứng độc lập đối với các thông tin mà công nghệ mang lại.

Phó Giáo sư Nguyễn Hoàng Hải cho rằng, để chuyển đổi số trong nghiên cứu thực sự hiệu quả, Việt Nam cần tập trung vào ba hướng: xây dựng hạ tầng dữ liệu mở và hệ thống dữ liệu tiếng Việt chuẩn hóa; ban hành khung pháp lý và quy chuẩn đạo đức trong ứng dụng trí tuệ nhân tạo, bảo đảm quyền sở hữu và bảo mật dữ liệu; đầu tư phát triển nguồn nhân lực số, kết hợp năng lực công nghệ với tư duy phản biện và sáng tạo.

Sự ra đời của Chiến lược quốc gia về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo đến năm 2030 và Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, được đánh giá là cơ sở quan trọng, giúp Việt Nam chủ động ứng dụng công nghệ mới trong nghiên cứu. Đây là thời điểm thuận lợi để khoa học xã hội và nhân văn chuyển mình, hướng tới các phương pháp nghiên cứu có tính dự báo, phục vụ hoạch định chính sách và đóng góp tích cực vào công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Động lực giúp khoa học xã hội Việt Nam hội nhập

Theo Tiến sĩ Phan Khánh Dương, Viện Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), chuyển đổi số đang mở ra không gian phát triển mới cho khoa học xã hội Việt Nam. Việc ứng dụng công nghệ số giúp tăng khả năng khai thác dữ liệu, nâng cao chất lượng nghiên cứu và mở rộng hợp tác học thuật trong nước cũng như quốc tế.

Nhiều đề tài nghiên cứu đã tận dụng trí tuệ nhân tạo trong việc thu thập và xử lý dữ liệu xã hội. Tại Viện Khoa học xã hội, các nhóm nghiên cứu sử dụng công nghệ để phân tích văn bản, dữ liệu mạng xã hội, nhận diện xu hướng dư luận và hành vi của thanh niên, qua đó cung cấp thông tin hữu ích cho cơ quan quản lý trong hoạch định chính sách.

Một số trường đại học trong nước cũng đang triển khai dự án ứng dụng công nghệ thực tế ảo trong giảng dạy và thực nghiệm xã hội. Việc mô phỏng tình huống, quan sát phản ứng của người học trong môi trường ảo góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và mở ra hướng nghiên cứu mới cho các ngành tâm lý học, xã hội học, truyền thông.

Tiến sĩ Phan Khánh Dương nhận định, bên cạnh cơ hội, chuyển đổi số trong khoa học xã hội vẫn đối diện nhiều thách thức, gồm hạn chế về kỹ năng công nghệ trong đội ngũ nghiên cứu, thiếu hạ tầng dữ liệu đồng bộ, chi phí ứng dụng cao và hành lang pháp lý chưa hoàn thiện.

Để khắc phục, các giải pháp cần được triển khai đồng bộ như: đào tạo năng lực số cho đội ngũ nghiên cứu, đặc biệt là thế hệ trẻ; phát triển cơ sở dữ liệu xã hội và dữ liệu tiếng Việt chất lượng cao; hoàn thiện quy định pháp lý và đạo đức ứng dụng công nghệ, bảo đảm quyền dữ liệu và minh bạch học thuật; mở rộng hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm từ các nước có nền khoa học tiên tiến, phát triển mô hình nghiên cứu mang bản sắc văn hóa Việt Nam.

Theo Tiến sĩ Phan Khánh Dương, chuyển đổi số không chỉ góp phần nâng cao năng suất và chất lượng nghiên cứu, mà còn giúp khoa học xã hội Việt Nam hội nhập sâu hơn với thế giới. Dữ liệu được số hóa và phân tích trên quy mô lớn hỗ trợ dự báo xã hội, cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách phát triển phù hợp với thực tiễn. Quá trình này thể hiện tinh thần chủ động, sáng tạo và khát vọng đổi mới của giới khoa học Việt Nam trong việc gắn kết tri thức với phục vụ con người và phát triển bền vững đất nước.

Lý Thanh Hương (TTXVN)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/khoa-hoc-cong-nghe/chuyen-doi-so-mo-duong-cho-tri-thuc-viet-vuon-xa-20251009121330241.htm