Chung điệu hò tình quê
Khi ánh hoàng hôn rơi nhẹ trên những cánh đồng lúa bát ngát ở Quảng Trị và Quảng Bình, khi những người nông dân vẫn còn cần mẫn bên cối giã gạo hay trên con thuyền xuôi dòng Kiến Giang, đâu đó vọng lên tiếng hò mộc mạc, trầm bổng và da diết. Điệu hò giã gạo Quảng Trị và hò khoan Lệ Thủy Quảng Bình vốn gắn bó với người dân lao động từ bao đời nay. Tuy ra đời từ hai vùng đất khác nhau, mỗi điệu hò lại mang những nét riêng của văn hóa bản địa, nhưng lại giống nhau ở sự chân chất, tình cảm sâu nặng và khát vọng vươn lên giữa bao gian khó.

Nghệ nhân Thúy Ái biểu diễn điệu hò giã gạo tại một lễ hội bài chòi ở tỉnh Quảng Trị - Ảnh: NVCC
Tiếng hát từ lao động
Hò là tiếng lòng của người nông dân nghèo, là lời tự tình của mảnh đất nắng gió miền Trung, là sự kết tinh giữa lao động và tâm hồn.
Theo bà Nguyễn Thị Nương, Quyền Trưởng phòng Quản lý văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị thì hò giã gạo Quảng Trị gắn liền với công việc giã gạo, một sinh hoạt thường nhật của người dân quê ngày xưa. Mỗi buổi giã gạo thường là dịp tụ hội tập thể, nơi trai gái trong làng cùng nhau lao động và... hò. Tay nhịp nhàng cầm chày, miệng ngân nga câu hát, công việc tuy vất vả mà trở nên nhẹ nhàng, vui tươi.
Tương tự, hò khoan Lệ Thủy cũng bắt nguồn từ sinh hoạt lao động nhưng là lao động sông nước và đồng ruộng. Trong những buổi chèo thuyền qua sông Kiến Giang, hay những ngày cấy lúa, gặt mùa, câu hò khoan lại vang lên, khoan thai mà tha thiết. Cái tên “khoan” cũng bắt nguồn từ lời gọi “khoan khoan hò khoan”, vừa là lệnh nhịp, vừa là khúc dạo cho một câu đối đáp sắp bắt đầu.
Cả hai làn điệu đều xuất phát từ lao động, phản ánh rõ nét sự gần gũi, dung dị của người dân miền Trung với thiên nhiên, với cuộc sống mưu sinh đầy gian khổ. Nhưng chính trong lao động ấy, tiếng hò trở thành ngọn lửa thắp lên tình người và niềm hy vọng.
Một đặc điểm nổi bật của hò giã gạo và hò khoan là hình thức đối đáp, một người hò lên câu trơi (câu mở đầu), người kia liền đáp lại bằng một câu khác. Trong câu đối đáp đó là cả sự hài hước, duyên dáng, dí dỏm và nhiều khi là những lời tỏ tình ngọt ngào, ẩn sau nét e lệ của người quê. “Anh hò bên ni núi, em nghe bên nớ sông, núi cao em có biết, thì sông cũng ngập lòng” (Hò giã gạo Quảng Trị).
“Khoan khoan hò khoan, anh hỏi em thiệt thà, ruộng ai mà lúa tốt, hay ruộng nhà mà tha?” (Hò khoan Lệ Thủy).
Cả hai đều mở đầu bằng câu hỏi hoặc lời gọi, sau đó có phần đáp lại nhẹ nhàng, dí dỏm hoặc sâu sắc, thể hiện sự lanh lợi, thông minh và cả tình cảm trong giao tiếp nam - nữ. Câu hò là ngôn ngữ để gửi gắm tình cảm, là nơi thể hiện sự thông minh, tinh tế trong cách ứng xử. Hò là “kênh giao tiếp” đặc biệt của người quê, vừa sâu sắc, vui nhộn, vừa trữ tình, lại vừa ý nhị. Trong tiếng hò ấy, tình yêu không hề ủy mị hay đau khổ mà luôn tươi sáng, hy vọng, chân thành, kín đáo nhưng sâu đậm.
Tiếng lòng giản dị, sâu xa
Nghệ nhân Thúy Ái, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Quảng Trị, người nhiều năm gắn bó với hai làn điệu hò, nhận định: “Điều khiến người ta nhớ mãi chính là sự mộc mạc, tự nhiên trong từng câu hát. Giai điệu không bị gò ép, có khi trầm lắng như lời thủ thỉ, có khi bổng cao như khúc reo vui giữa mùa gặt”.
Không hoa mỹ, không ẩn dụ cầu kỳ, hình ảnh trong câu hò gần gũi như chính đời sống người dân quê: ruộng đồng, mái nhà, con đò, bến nước, gốc đa, sân đình... Những hình tượng ấy không chỉ hiện hữu trong lời ca mà còn là ký ức tập thể, là không gian văn hóa bao thế hệ người Việt đã cùng lớn lên.Điều đặc biệt là hò không dùng hình ảnh trừu tượng mà gần gũi, thân thuộc như: mái tranh, giếng nước, sân đình, dòng sông quê, gốc đa đầu làng... Những hình ảnh ấy không chỉ là bối cảnh mà còn là biểu tượng văn hóa, là cái nền cho tiếng hò thêm hồn, thêm nghĩa.
Thử lắng nghe đoạn hò khoan đối đáp Lệ Thủy mang tính “trào phúng duyên ngầm”:
Nam: Lệ Thủy có nước Kiến Giang,/ Có câu hò khoan dịu dàng thiết tha,/ Gái quê vừa đảm vừa thoa,/ Về làm dâu mẹ chắc là ưng ngay!
Nữ: Đất quê em thắm tình người,/ Ai mà thật dạ em mời ghé chơi!
Sự lanh lợi, hóm hỉnh, đậm đà của người dân quê không nằm trong lý luận mà trong câu hò, vừa đùa cợt vừa đầy ẩn ý, vừa hồn nhiên lại vừa thâm trầm.
Tương tự, hò giã gạo Quảng Trị lời do bà Thúy Ái biên soạn thể hiện:
Nữ: Đặc sản quê ta ở nơi mô nhiều tôm lắm cá/ Tiếng nổi xa gần Cồn Cỏ chi với món chi?
Rượu vô dùng không lưỡng lự nghĩ suy/ Trai nam nhi anh mà được với nói được/ Trai nam nhi anh mà nói được/ Vậy em thì theo với xin theo.
Nam: Cửa Việt, Cửa Tùng là nơi nhiều tôm lắm cá/ Tiếng nổi xa gần là Cua Đá - Đảo Cồn Cỏ ngon với thơm ngon/ Triệu Hải, Gio An anh đã đến nhiều nơi/ Rượu Kim Long - Quế với Hải Quế/Rượu Kim Long - Hải Quế, vậy em thời anh với theo anh!
Sân khấu làng, nơi nghệ thuật được gieo mầm
Trước khi được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể, hò giã gạo và hò khoan là “sân khấu làng” đích thực. Không cần phông màn, không có ánh đèn hay sân khấu lộng lẫy, chỉ cần một buổi tối trăng sáng, một khoảng sân đình, người dân quây quần hò đối đáp.
Ở đó, không có ranh giới giữa nghệ sĩ và khán giả, tất cả đều là người hát, người nghe, là một cộng đồng đang kể cho nhau nghe chuyện làng, chuyện quê, chuyện người.

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Lý (ở giữa) và các nghệ nhân CLB Hò khoan Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình đang diễn xướng - Ảnh: MT
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Lý (70 tuổi) ở xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, hào hứng: “Hò khoan Lệ Thủy là vốn quý của cha ông truyền lại. Ai đã mê rồi thì không sao dứt được. Đã hát rồi là hát say sưa. Nghe có hò hát, văn nghệ, hội diễn chỗ mô là trong người cứ rạo rực. Tui mê hò khoan từ khi nhỏ nay đã 70 vẫn cứ mê, e là còn mê hơn lúc trẻ. Mà không phải riêng tui, ai mê hò khoan cũng đều rứa cả”.
Sự mộc mạc ấy chính là nét quyến rũ đặc biệt. Hò không phô trương, không hào nhoáng nhưng mang một sứ mệnh cao cả truyền lại đạo lý, lối sống và tình yêu quê hương cho thế hệ mai sau.
Giữa nhịp sống hiện đại, khi âm nhạc số tràn ngập đời sống tinh thần, hò giã gạo Quảng Trị và hò khoan Lệ Thủy, Quảng Bình vẫn âm thầm ngân vang, như một lời nhắc nhở đầy yêu thương về quê hương, cội nguồn, về nếp quê và những giá trị không bao giờ cũ.
Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/chung-dieu-ho-tinh-que-194303.htm