Chủ động kiểm soát ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi
Trong bối cảnh phát triển kinh tế nông nghiệp gắn liền với yêu cầu bảo vệ môi trường sống bền vững, vấn đề phòng ngừa và xử lý ô nhiễm từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhất là hoạt động chăn nuôi cần được quan tâm thực hiện.
Tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm từ chăn nuôi nhỏ, lẻ, tự phát
Theo đánh giá của UBND tỉnh, tình trạng ô nhiễm môi trường từ hoạt động chăn nuôi thủy sản, gia súc, gia cầm vẫn còn diễn ra, nhất là trong các hộ gia đình sống rải rác theo cụm dân cư, chăn nuôi nhỏ, lẻ, không theo quy hoạch hoặc áp dụng hình thức chăn nuôi truyền thống.
Những mô hình này thường thiếu điều kiện xử lý chất thải, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm nguồn nước, phát sinh mùi hôi và ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe cộng đồng. Từ thực tế đó, UBND tỉnh cùng các sở, ngành liên quan đã triển khai nhiều biện pháp nhằm kiểm soát ô nhiễm như tuyên truyền, hỗ trợ kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, hướng dẫn người dân xử lý chất thải chăn nuôi theo đúng quy định. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn không ít khó khăn do người dân chưa chủ động chuyển đổi mô hình, vẫn giữ tập quán nuôi nhỏ, lẻ phục vụ nhu cầu riêng.

Một số ao nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng Đồng Tháp Mười
Đối với thủy sản, qua rà soát cuối năm 2024, tổng diện tích đất để nuôi tôm thẻ tại 5 huyện của vùng Đồng Tháp Mười khoảng 591,71ha với tổng số 1.466 ao. Trong đó, ao lắng 187,17ha với 566 ao, chiếm 32% so với diện tích đất; ao nuôi 404,54ha với 900 ao (gồm nuôi ao 401,24ha và bè nổi 3,3ha). Hệ thống ao nuôi của các hộ đạt yêu cầu kỹ thuật để nuôi tôm thẻ khoảng 79%, không đạt 16%.
Ngoài ra, thời gian qua, khảo sát hiện trạng môi trường chăn nuôi tại 600 cơ sở chăn nuôi trên địa bàn tỉnh có 73,04% cơ sở chăn nuôi có khoảng cách chăn nuôi an toàn theo quy định; 79,02% cơ sở chăn nuôi thực hiện hồ sơ môi trường hoặc đăng ký môi trường; 36,6% cơ sở chăn nuôi có bán phân tươi ra thị trường dùng làm phân bón cho trồng trọt, phần còn lại xử lý phân thông qua hầm biogas tận dụng khí gas làm chất đốt, rất ít phân trong chăn nuôi vịt làm thức ăn cho cá. 27% cơ sở chăn nuôi xả nước thải chưa qua xử lý trực tiếp xuống ao cá, phần còn lại xử lý nước thải thông qua công trình khí sinh học biogas.
Nhằm giảm thiểu ô nhiễm, thời gian qua, UBND tỉnh tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động người dân di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực nội thành, nội thị, khu dân cư. Tuy nhiên, việc triển khai, thực hiện còn gặp khó khăn, vẫn còn hoạt động chăn nuôi trong khu dân cư, đô thị do phần lớn người dân nuôi phục vụ nhu cầu riêng của gia đình.
Hướng đến chăn nuôi bền vững, tuần hoàn
Thời gian tới, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo địa phương tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức và xây dựng ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng; tập huấn, hướng dẫn người dân, hộ chăn nuôi áp dụng chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, tuần hoàn, bền vững; khuyến khích, hướng dẫn người dân, hộ chăn nuôi xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh có hầm biogas để xử lý chất thải. Cùng với đó, kết hợp hướng dẫn, giới thiệu cho người dân, hộ chăn nuôi sử dụng các sản phẩm đệm lót, chế phẩm sinh học xử lý chất thải, xử lý nước thải để giảm mùi hôi và xử lý chất ô nhiễm tại chỗ, có thể tận dụng chất thải phát sinh ủ compost làm phân bón hữu cơ vi sinh.

Chăn nuôi heo nếu không thực hiện bảo đảm các kỹ thuật cũng dễ gây ô nhiễm
Ngoài ra, tỉnh cũng tăng cường các chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi để xây dựng công trình xử lý chất thải như bể biogas, đệm lót sinh học; lồng ghép với các chương trình nông thôn mới, khuyến nông, bảo vệ môi trường cấp phát hoặc hỗ trợ chế phẩm vi sinh cho người dân áp dụng xử lý chất thải chăn nuôi để có thể tiếp cận đến các hộ chăn nuôi một cách thuận tiện, dễ dàng nhất.
Giải pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi ở tỉnh không chỉ dừng lại ở các biện pháp kỹ thuật mà còn gắn liền với đổi mới tư duy sản xuất của người dân. Để làm được điều đó, rất cần sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, ngành chuyên môn, người chăn nuôi. Có như vậy, ngành Nông nghiệp tỉnh nhà mới có thể phát triển bền vững./.